Skip to main content

Dulce et Decorum Est – Wikipedia tiếng Việt

Dulce et Decorum est – là bài thơ của nhà thơ Anh Quốc Wilfred Owen viết năm 1917 và được công bố năm 1921, sau khi nhà thơ đã hy sinh tại một trận đánh vào năm 1918 trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Bài thơ có 28 dòng. Đầu tiên, đây là một bức thư riêng nhưng sau Wilfred Owen đã quyết định công bố đến đông đảo bạn đọc.

Bài thơ bắt đầu bằng hình ảnh những người lính trận mạc băng qua bùn lầy, khói lửa của chiến tranh trở về phía sau… Mệt mỏi và bị hơi độc tấn công… Một người trong số họ bị chết vì trúng khí độc… Khổ cuối là những lời kêu gọi chống chiến tranh. Tác giả dùng câu danh ngôn của đại thi hào Horace thời La Mã cổ đại: Dulce et decorum est/ pro patri mori (Được chết vì tổ quốc/ sung sướng và ngọt ngào thay). Bài thơ được viết bằng một tình cảm chân thành và chính điều này đã làm cho nó trở thành một trong những bài thơ chống chiến tranh nổi tiếng nhất.




Dulce et Decorum Est

 

Bent double, like old beggars under sacks,

Knock-kneed, coughing like hags, we cursed through sludge,

Till on the haunting flares we turned our backs

And towards our distant rest began to trudge.

Men marched asleep. Many had lost their boots

But limped on, blood-shod. All went lame; all blind;

Drunk with fatigue; deaf even to the hoots

Of tired, outstripped Five-Nines that dropped behind.

 

Gas! Gas! Quick, boys! – An ecstasy of fumbling,

Fitting the clumsy helmets just in time;

But someone still was yelling out and stumbling,

And flound'ring like a man in fire or lime...

Dim, through the misty panes and thick green light,

As under a green sea, I saw him drowning.

In all my dreams, before my helpless sight,

He plunges at me, guttering, choking, drowning.

 

If in some smothering dreams you too could pace

Behind the wagon that we flung him in,

And watch the white eyes writhing in his face,

His hanging face, like a devil's sick of sin;

If you could hear, at every jolt, the blood

Come gargling from the froth-corrupted lungs,

Obscene as cancer, bitter as the cud

Of vile, incurable sores on innocent tongues,

My friend, you would not tell with such high zest

To children ardent for some desperate glory,

The old Lie; Dulce et Decorum est

Pro patria mori.

Dulce et Decorum Est

 

Người gấp đôi lại như ăn mày ôm bao tải

Lưng quay về khói lửa của chiến tranh

Khản cổ vì ho, chúng tôi khập khễnh lê chân

Mệt mỏi rã rời, khát khao về nơi nghỉ.

Chúng tôi lê chân, đôi mắt mơ màng ngủ

Giày dép không còn, mong thoát cho mau

Mò mẫm đi, không phân biệt nổi phía sau

Tiếng lựu đạn, tiếng bom đì đùng nổ.

 

Hơi độc! Nhanh lên! Những bước chân luống cuống

Tìm để đeo vào mặt nạ chống hơi cay

Ai đó lề mề, giẫm chân phải chất nhầy

Rồi giãy giụa như trong thùng lửa bỏng

Trong ánh sáng có màu xanh đặc quánh

Tôi thấy mình bất lực tựa trong mơ

Muốn giúp mà không giúp được anh ta

Anh ta vẫy vùng và rồi chìm nghỉm.

 

Giá mà bạn đã cùng lê bước với chúng tôi

Sau cái xe mà chúng tôi chất xác chết

Nhìn khuôn mặt và đôi mắt trắng bệch

Nhưng đôi mắt không còn thấy nữa rồi.

Bạn nhìn thấy máu me cùng bao xác chết

Thì bạn sẽ hiểu ra, bạn của tôi ơi

Thì bạn sẽ không còn dạy cho lớp trẻ

Những lời dối gian xưa nghe đầy cám dỗ:

Dulce et decorum est

pro patri mori

Được chết vì tổ quốc

sung sướng và ngọt ngào thay.

Bài thơ này trái ngược với bài thơ Người lính (The Soldier) của thi sĩ Rupert Brooke, cũng là bài thơ nổi tiếng về cuộc Đại chiến thế giới lần thứ nhất.









Comments

Popular posts from this blog

Quảng Châu Loan – Wikipedia tiếng Việt

Quảng Châu Loan (tiếng Pháp: Kouang-Tchéou-Wan , chữ Hán: 廣州灣), hoặc Lãnh thổ Quảng Châu Loan (tiếng Pháp: Territoire de Kouang-Tchéou-Wan ) là một vùng đất ở miền Nam Trung Hoa, ven bờ đông bán đảo Lôi Châu, thuộc tỉnh Quảng Đông. Khu vực này từ năm 1898 là nhượng địa [1] [2] [3] của Pháp ký với nhà Thanh với hạn kỳ 99 năm nhưng đến năm 1946 thì đã hoàn lại chính phủ Trung Hoa. Nay vùng đất này thuộc địa cấp thị Trạm Giang, tỉnh Quảng Đông. Về mặt hành chính Quảng Châu Loan trực thuộc thống sứ Bắc Kỳ nhưng hưởng quy chế riêng chứ không sáp nhập vào Bắc Kỳ. Thuộc địa này sơ khởi được gọi là Fort Bayard, có Ủy viên ( Commissaire ) cai quản. Kể từ năm 1900 Quảng Châu Loan là một trong 6 xứ trong Liên bang Đông Dương. Năm 1946 sau Chiến tranh thế giới thứ hai Pháp trao trả Quảng Châu Loan lại cho chính phủ Trung Hoa Dân quốc theo hiệp ước ký kết ở Trùng Khánh ngày 28 Tháng Hai. Để bù lại việc Pháp trả các tô giới Quảng Châu Loan, Thượng Hải, Hán Khẩu, và Quảng Đông lại cho Trung Hoa, c...

Tháp truyền hình tỉnh Thiểm Tây - Wikipedia

Tháp truyền hình tỉnh Thiểm Tây là một tháp viễn thông bê tông đứng tự do được xây dựng vào năm 1987 tại Tây An, Trung Quốc. Nó cao 245 mét (804 ft). Xem thêm [ chỉnh sửa ] Danh sách các tòa tháp Bài viết này về một tòa nhà hoặc cấu trúc ở Trung Quốc là còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia bằng cách mở rộng nó. v t e visit site site

Arthur Ernest Morgan - Wikipedia

Arthur Ernest Morgan (20 tháng 6 năm 1878 - 16 tháng 11 năm 1975) là một kỹ sư dân sự, quản trị viên và nhà giáo dục Hoa Kỳ. Ông là kỹ sư thiết kế cho hệ thống kiểm soát lũ quận Miami Conservancy và giám sát xây dựng. Ông từng là chủ tịch của Antioch College trong khoảng thời gian từ 1920 đến 1936. Ông cũng là chủ tịch đầu tiên của Cơ quan Thung lũng Tennessee từ năm 1933 đến năm 1938, trong đó ông sử dụng các khái niệm đã được chứng minh trong công việc trước đây của mình với Khu bảo tồn Miami. Thời niên thiếu [ chỉnh sửa ] Arthur E. Morgan sinh ra ở gần Cincinnati, Ohio nhưng gia đình ông sớm chuyển đến St. Cloud, Minnesota. Sau khi tốt nghiệp trung học, anh dành vài năm tiếp theo để làm việc ngoài trời ở Colorado. Trong thời gian này, ông đã học được rằng có một sự hiểu biết thực tế về kỹ thuật thủy lực. Anh trở về nhà và bắt đầu luyện tập với cha mình, học về kỹ thuật thủy lực bằng cách học nghề. Đến năm 1910, ông đã thành lập công ty riêng và trở thành thành viên liên k...