Skip to main content

Vũ Phạm Khải – Wikipedia tiếng Việt

Chân dung Vũ Phạm Khải

Vũ Phạm Khải (chữ Hán: 武范啟, 1807 – 1872), là một vị quan tiến bộ của triều đình nhà Nguyễn, một trong những vị quan tích cực nhất trong phái chủ chiến chống Pháp. Ông còn là một nhà thơ nổi tiếng đương thời.

Ông tên chữ là Đông Dương, Hựu Phú, tên hiệu là Nam Minh, Ngu Sơn, Dưỡng Trai. Quê của ông là làng Thiên Trì, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, nay là thôn Phượng Trì, xã Yên Mạc, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình.

Ông làm quan dưới 3 triều vua Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức và trải qua các chức vụ chính: Tri huyện, Ngự sử, Lang trung Bộ Hình, Tham biện nội các (nên người ta thường gọi ông là Quan các Phượng Trì), Toản tu sử quán, Trưởng Hàn lâm viện, Bố chính Thái Nguyên





Ông đỗ cử nhân khoa Tân Mão (1831). Năm sau, ông đi thi Hội đã vào đến tứ trường, nhưng vì bài làm có mấy chữ khiến quan trường e ngại muốn truất xuống chỉ lấy đỗ Phó bảng. Theo thể lệ thi, nếu đã đỗ Phó bảng, không được thi Hội nữa. Ông Hà Duy Phiên – lúc ấy làm quan độc quyển – tin ở học lực của Vũ Phạm Khải có thể thi Hội tiếp, đạt học vị Tiến sĩ, cho nên không lấy ông đỗ Phó bảng.

Năm 1833, ông làm hậu bổ ở Nghệ An. Năm 1834 làm sơ khảo trường Nghệ An, rồi quyền Tri huyện Thanh Chương. Vừa tập sự việc quan, ông vừa nấu sử sôi kinh chờ khoa thi sau. Nhưng rồi khoa thi Hội năm 1835, ông lại bị trượt vì phạm trường quy. Từ đó ông dứt tâm hẳn với con đường khoa cử, nhận quyền Tri huyện Hưng Nguyên, rồi Tri huyện Quỳnh Lưu từ năm 1836. Ở đây ông có nhiều chính tích tốt, xét xử hình án sâu sắc, nghiêm minh, trừ khử được nạn trộm cướp, khôi phục ruộng đất bỏ hoang.

Thời gian 1838-1841 ông về triều, giữ chức Lễ khoa Cấp sự trung ở Viện Đô sát, một chức ngự sử theo dõi công việc ở bộ Lễ. Ông là người cương trực, phản đối Minh Mệnh nhiều lần về cách đối xử xúc phạm đến các quan liêu. Hiệp biện đại học sĩ Nguyễn Trung Mậu phạm lỗi, Minh Mệnh tức giận, bắt trói Trung Mậu lại. Ông thẳng thắn can: "Trung Mậu ngôi đến Thượng thư, có tội tưởng chỉ nên thuất giáng. Gông trói ông ta như thế, mọi người nhìn vào sẽ ra sao? Sợ không hợp với cách tôn người tôn, quý người quý". Năm 1840, vừa gặp lệ tuế cống, vừa đúng dịp lễ thọ 60 tuổi vua nhà Thanh, Minh Mệnh cử một lúc hai sứ bộ vừa tiến hành nghi lễ ngoại giao vừa gồng gánh nhiều hàng đi đổi ngoại hóa về dùng. Ông kịch liệt phản đối, cho rằng làm thế là phạm quốc thể, có khác gì đi buôn.

Thời gian này, dân sự ngoài Bắc không yên, ông và Ngự sử theo dõi công việc bộ Lại là Lê Chân đề xuất cử người đi thanh tra, được Minh Mệnh phái làm luôn việc ấy. Sau gần nửa năm kinh lý, hai ông dânh sớ đàn hặc và kiến nghị 30 điều, trong đó có các việc quan trọng: xin phát chẩn trực tiếp cho dân bị nạn dịch; bãi bỏ bớt số lượng nhân viên ở các phủ huyện để bớt chi phí và đỡ nhiễu dân; cách chức Tri huyện Kim Động, Nguyễn Vĩ, Bố chính Hải Dương Nguyễn Hữu Khuê …, phần nhiều đều xác đáng và được thi hành.

Sau khi Minh Mệnh mất, Thiệu Trị Lên ngôi năm 1841, Vũ Phạm Khải được thăng Lang trung bộ Hình, biện lý công việc của bộ. Mùa xuân năm ấy mở thi Hội, do Trương Đăng Quế, Phan Thanh Giản giữ chức độc quyền, Vũ Phạm Khải và Nguyễn Cửu Trường là quan duyệt quyển (làm công việc như sơ khảo), lấy được 11 Tiến sĩ. Xuất thân từ học vị Cử nhân, sau mười năm, ông đã chấm thi cho các bậc Tiến sĩ.

Ba năm làm quan ở bộ Hình, ông đã khảo cứu các bộ luật ở các triều đại trước, trích rút những điều hệ trọng về lễ nghi và hình sự để soạn cuốn Lịch đại chính hình thông khảo như một thứ cẩm nang dùng trong công việc hình án. Ông có hẳn một quan niệm về việc vận dụng luật để xét xử, tức là không không phải chỉ tìm cách để buộc tội, mà còn phải tìm mọi điều khoản để có thể gỡ tội.

Thiệu Trị chú ý chỉnh đốn việc chép sư triều Nguyễn, xây dựng Sử quán. Vũ Phạm Khải được tiến cử cùng Đỗ Tông Quang, Tô Trân, Phạm Hữu Nghị vào chức Toản tu (tương tự biện tập). Từ đó, năm 1841, Vũ Phạm Khải đã thực sự gắn bó với sử học. Sau ba năm tu chỉnh, ngày 6-3-1844, bộ Đại Nam thực lục tiền biên (về 7 đời chúa Nguyễn) gồm 12 quyển đã được hoàn thành.

Năm 1844, ông được thăng hàm Hàn lâm thị độc học sĩ làm việc ở tòa Nội các, gồm những người có văn tài đương thời như Nguyễn Bá Nghi, Tôn Thất Hiệp, Nguyễn Cử Trường, Mai Anh Tuấn, Nguyễn Văn Siêu, Thân Văn Nhiếp. Vũ Phạm Khải đã tham gia hiệu chỉnh, chú giải, viết tựa hoặc bạt cho các bộ sách của Thiệu Trị như Ngự chế lịch đại sử tổng luận (sử), Ngự chế cổ kim thể cách thi pháp (thi pháp), Phụ tướng tài thành, Tiên thiên hậu thiên (thơ), Hoàng huấn cửu thiên (giáo dục).

Năm 1845, ông được thăng Thông chính phó sứ, chuyên truyền đạt các chính lệnh của triều đình, thu thập những báo cáo, kiến nghị từ các ngành, các địa phương lên. Nhiều lần ông được Thiệu Trị hởi về thơ văn, kinh sách, sử học, lịch pháp, ông trả lời đầy đủ, rõ rang, sâu sắc, khiến Thiệu Trị phải thốt lên: "Khanh là một các hòm sách chăng? Sự đọc sách cần phải sâu rộng như vậy".

Cuối năm 1847, Thiệu Trị mất, Tự Đức nối ngôi. Ông cũng được Tự Đức yêu vì, bởi sự ham đọc và học rộng của ông.

Năm 1848, mở khoa thi Hội, thi Đình, ông lại được sung chức duyệt quyển cùng Đỗ Tông Quang. Khoa ấy lấy 8 Tiến sĩ, 14 Phó bảng. Khoa này có Đặng Huy Trứ trúng cách, nhưng vì trong bài có mấy chữ phạm đến tên làng Gia Miêu họ Nguyễn tôn thất mà bị đánh hỏng, cách tuột cả học vị Cử nhân, phạt đánh một trăm roi và cấm thi cả đời. Chính ông Vũ đã xin cho Đặng được miễn hình phạt cuối cùng. Kỳ thi ân khoa cuối năm ấy, Đặng đỗ Cử nhân đầu bảng, được trọng dụng và là nhà canh tân nổi tiến thời ấy. Khi lập tòa Kinh diên làm nơi giảng sách và bàn luận nghĩa lý cho nhà vua và các văn thần, Vũ Phạm Khải được làm "Kinh diên nhật giảng quan" (quan thường trực giảng sách hàng ngày).

Là người có tài, lại trực tính, không ưa xu phụ kẻ quyền thế, Vũ Phạm Khải khó tránh khỏi tai họa. Trong 15 năm làm quan, ông đã bị 2 lần giáng cấp và 19 lần phạt trừ lương.

Năm 1848, bị cách chức, ông xin nghỉ việc về quê phụng dưỡng cha mẹ, nhiều lần từ chối lệnh vời của triều Nguyễn.

Năm 1856, khi ông tròn 50 tuổi, một lần nữa triều Nguyễn lại có "Nghiêm mệnh" triệu vào Kinh. Ông vẫn ngần ngại. Nhưng rồi cha mẹ khuyên bảo, thúc giục, ông đành phải dứt áo ra đi. Lần tứ hai vào triều, ông giữ chức biên tu Sử quán.



Năm 1858, liên quân Pháp – Tây Ban Nha đánh chiếm Đà Nẵng. Trang triều nổ ra cuộc đấu tranh giữa hai phe chiến và hòa, mà phe chủ hòa lại là những đại thần đầu triều là Trương Đăng Quế, Phan Thanh Giản… Vũ Phạm Khải không ngần ngại đứng về phe chủ chiến, thay mặt đồng liêu trong Sử quán viết sớ trình bày quan điểm của mình và viết bài Hòa Nhung luận (Bàn về việc hòa với rợ Nhung).

Vũ Phạm Khải là nhà thơ, nhà văn, chủ yếu chiến đấu bằng bút mực. Nhưng mỗi khi cần, lại tự nguyện gác bút nghiên xông ra chiến trận, dù đôi khi không thuộc trách nhiệm được giao.

Năm 1859, ông phải về quê cư tang cha và sau đó một năm là tang mẹ. Trong khi đó, Pháp gây chiến ở Nam Kỳ, và năm 1862, chiếm ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường. Chính sách "phân sáp Gia Tô" của triều Nguyễn làm cho giáo dân bất bình. Ở Ninh Bình, bọn phản động trong Thiên Chúa giáo, tay sai thực dân Pháp làm bạo loạn, giết Tri phủ Nho Quan, chiếm phủ thành. Với tinh thần trách nhiệm, Vũ Phạm Khải đứng ra chiêu mộ nghĩa dũng, phối hợp với quan quân trong tỉnh để dẹp loạn, chiếm lại phủ thành Nho Quan. Khi tiếp nhận phủ thành, quan tỉnh muốn truy nã những kẻ chạy trốn, ông can rằng làm thế chỉ nhiễu dân, đan yên giặc còn sót sẽ tự tan. Bắt được giấy tờ của giặc bỏ lại, quan tỉnh muốn truy cứu những kẻ tư thông với giặc, ông khuyên đốt hết những giấy tờ ấy, xóa hết tội cho họ thì sẽ chấm dứt mầm phản trắc.

Tự Đức biết tin, khen và cử ông làm Bang biện tỉnh (giúp đỡ việc tỉnh) Ninh Bình chuyên lo việc phòng giữ đánh dẹp. Sau Vũ Phạm Khải được cử sung chức Thương biện ở Ninh Bình để phủ dụ dân, cai quản hương dũng, bảo vệ địa phương.

Tuy chỉ giữ trách nhiệm ở tỉnh nhà, ông vẫn quan tâm chung lo đến đại cục đất nước. Nghe tin Hòa ước Nhâm Tuất (1862) được ký kết, ông đau xót và làm bài Lỗ Trọng Liên luận (Bàn về Lỗ Trọng Liên) để bày tỏ ý chí của mình. Biết có phái bộ Pháp ra Huế, ông viết Tờ tâu về việc đối phó với giặc Tây, khuyên Tự Đức không chấp nhận Hòa ước ấy và xử lý cứng rắn với chúng. Song, những kiến nghị của ông đều chẳng có hồi âm, những lời thỉnh nguyện của ông đều bị bác bỏ.

Năm 1865, ông được triệu về triều lần thứ ba, để sung làm Toản tu Sử quán, chức vụ ông đã giữ cách đây một phần tư thế kỷ. Ông đã cùng các bạn đồng Quán hoàn thành bộ Đại Nam thực lục đệ nhị kỷ (thời Minh Mệnh, 1820-1840) và khởi thảo bộ Đệ tam kỷ (thời Thiệu Trị, 1840-1847). Ông thu dạy học trò, phần lớn là con các bậc đại thân công, đại thần, hoặc sinh viên Quốc tử giám. Số người theo học có đến hàng trăm. Sau này có người đỗ Cử nhân, Tiến sĩ như Lê Đại, Quý Đồng…

Năm 1867, ông được cử làm Phó chủ khảo trường thi Hương Hà Nội. Năm sau, ông sung chức duyệt quyển thi Hội, thi Đình, sau được thăng Học sĩ Chưởng Hàn lâm Viện (đứng đầu, cai quản Viện Hàn lâm), kiêm công việc Sử Quán. Khi xướng họa thơ văn với Tự Đức, viết những luận văn do Tự Đức ra đề, hoặc khi vua tôi bàn soạn về thơ văn cổ, ông thườn lấy những sự tích, nghĩa lý trong sách cổ, làm ám dụ để khuyên can Tự Đức những điều thiết thực: phải biết dưỡng sức dân, chớ "làm dân gầy để béo mình", phải nghe lời người hiền, trọng dụng người tài, tinh giản bộ máy cai trị, loại trừ những phần tử tham nhũng, cần chấn chỉnh binh nhung để tự cường, đánh thắng…

Khi Pháp đòi Tự Đức nhường nốt ba tỉnh miền Tây, được triều thần hỏi, ông nói: "Lòng tham của giặc không chán, ta đã trót lầm một lần, há còn nên lầm lỡ lần thứ hai?". Các quan hỏi: "Nếu đánh thì làm thế nào cho được vạn toàn?" Ông nói: "Phải ở trong vòng vạn nguy, vạn chết mới làm ra được công cuộc vạn toàn, chứ tôi chưa thấy chỉ ngồi bó tay mà nói, lại có sự vạn toàn được."

Năm 1869, bọn Thanh phỉ Ngô Côn tràn xuống miền trung du Bắc Kỳ, Vũ Phạm Khải được phái ra làm Thương biện trợ lực cho tỉnh Ninh Bình. Ông đem binh đi khắp Nho Quan, Lục Yên, vừa an dân vừa tổ chức phòng giữ.

Năm 1870, Vũ Phạm Khải được cử làm quyền Bố chính tỉnh Thái Nguyên, là một điểm nóng, đã bị Thanh phỉ càn quét, quan quân nhà Thanh nhũng nhiễu, quan tỉnh thì tham ô. Vừa nhận chức, ông đã phải bắt tay điều tra vụ nguyên Bố chính Trần Văn Mỹ và nguyên Án sát Nguyễn Huy Du dựa vào quyền thế, mạo danh chiến lạm của công, kho tàng thiếu hụt phải niêm phong để tra xét. Các mỏ khoáng bị hỗn loạn, thất thu, ông phải ra lệnh tăng cường kiểm soát, ổn định tình hình, đưa trở lại nề nếp. Ruộng đất bị hoang hóa, dân chúng thiếu đói, ông đưa thóc kho phát chẩn, nhưng không đủ, phải cầu cứu tỉnh Bắc Ninh trợ cấp…

Mùa thu năm ấy, toán phỉ Đặng Chí Hùng trở lại quấy rối. Nguyên tên phỉ người Thanh này đã đầu hàng triều Nguyễn. Nhưng khi quân Thanh sang giúp triều Nguyễn đánh dẹp Thanh phỉ, các quan xúc xiểm với tướng Thanh, kết tội Đặng Chí Hùng và đuổi hắn đi. Nay quân Thanh về nước, y tụ tập đồ đảng quay trở lại. Vừa lúc phần lớn quan quân trong tỉnh phải tham gia quân thứ đi đánh dẹp ở Cao – Lạng, chúng liền đánh chiếm các cơ sở cũ. Trước nay Vũ Phạm Khải vẫn kiên trì chủ chương phủ dụ chiêu an đối với những kẻ phản loạn cùng đường, nên ông tìm cách thuyết phục Đặng Chí Hùng về hàng. Một mặt ông cho gọi các quan quân Thái Nguyên đang đánh dẹp ở Cao – Lạng về phòng thủ bản hạt. Song vì hiềm khích với Vũ Phạm Khải do ông phát hiện vụ tham ô, nên họ hoặc án binh bất động như Lê Bá Thận, hoặc như Trần Văn Mỹ đã thống nhất với ông là sẽ chiêu hồi Đặng Chí Hùng, và biết Đặng Chí Hùng đã ngỏ ý quy phục, nhưng vẫn mang quân tập kích phỉ, đẩy ông vào tình thế khó xử. Bọn phỉ bị bức bách chống trả, bao vây đánh các đồn Phủ Thông, Na Cù. Trần Văn Mỹ đốt đồn Na Cù, bỏ chạy, nhử cho bọn phỉ vây đánh đồn Bạch Thông do Vũ Phạm Khải cùng một toán quân nhỏ đóng giữ làm nhiệm vụ chiêu an và đốc vận lương thực. Bị tấn công, đồn Bạch Thông cầm cự được 10 ngày, ông vừa chỉ huy chống giữ vừa phát thư cầu viện tới các đạo quân trong tỉnh mà không có hồi âm. Duy chỉ có ba đội hương binh hơn bốn trăm từ Bắc Ninh (do học trò ông là Phạm Thận Duật điều phái), từ Nam Định (do bạn ông là Phạm Văn Nghị điều phái), và từ Ninh Bình (do con ông là Vũ Kế Xuân chiêu mộ) kéo quân đến giải cứu, do thư cáo cấp của ông, nhưng không kịp. Cuối cùng đồn vỡ, ông bị ốm không chạy kịp, sa vào tay giặc. Tin ấy đến kinh, Tự Đức ra lệnh phải cứu thoát bằng được bậc lão thần túc nho và chuẩn y đề nghị của ông được tùy nghi chiêu hồi Đặng Chí Hùng. Quả nhiên, ông đã thân đến Chợ Rã trực tiếp thuyết phục được Đặng Chí Hùng để không những y chỉ nhận trở lại lãnh trưng vùng Ngân Sơn – Chợ Rã, yên nghiệp làm ăn, mà còn nộp lại các đồn, các quan quân và vũ khí y mới đánh chiếm được.

Dù thế nào, theo lệ triều Nguyễn lúc ấy, người giữ thành, giữ đồn, để mất đều bị kỷ luật. Ông bị giáng ba cấp, đổi về triều làm Tả thị lang bộ Hình, kiêm Toản tu Sử quán. Về đến triều, ông lại bị một số viên Ngự sử thân quen với Trần Văn Mỹ, Lê Bá Thận, dựa vào những chứng cứ phao vu để đổ tội, đòi kết án nặng cho ông. Ông đã tự bào chữa trong tờ sớ Biện đàn (Biện luận về những lời đàn hặc) đầy chứng lý xác thực, hùng hồn. Nhưng bộ Lại, chủ trì xem việc này, mà Thượng thư là Nguyễn Tri Phương, người vốn có hiềm khích vì những lời chỉ trích của ông trước đây, cố tình giằng dai suốt 5 tháng chưa đi đến kết luận.

Đợi nghi án – một cái án bị khởi nghị và vây bủa bằng bao tích lũy hiềm thù – trong một tâm trạng đầy u uất, ông đã từ trần ngày 31-1-1872 (22 tháng 12 năm Tân Mùi), thọ 65 tuổi.

Sau khi ông mất, vụ án này được Tự Đức phán quyết như sau: "Không phải theo giặc, không phải xuất chinh, sau lại có công trạng thực, vậy không thể so như thường lệ được. Quan viên Khoa đạo nói là có lỗi, cân nhắc tình lý, ban cho tiền tuất 300 quan". Và để tỏ lòng thương tiếc ông, Tự Đức đã làm một bài thơ viếng ông.



Vũ Phạm Khải để lại một khối lượng tác phẩm khá phong phú. Các tác phẩm này đều viết bằng chữ Hán và lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, gồm có:

- Ngu Sơn văn tập, ký hiệu VHv.265/1-14.

- Ngu Sơn toàn tập, ký hiệu A.2483/1-2.

- Ngu Sơn văn tuyển, ký hiệu VHv.1792.

- Đông Dương văn, ký hiệu A.1082.

- Đông Dương văn tập, ký hiêu: A.193.

- Phượng Trì Đông Dương tiên sinh văn tập, ký hiệu VHv.1822.

- Phượng Trì văn tập, ký hiệu A.2458.

- Dưỡng Trai tập, ký hiệu A.429.

- Vũ Đông Dương văn tập, ký hiệu A.1884.

- Tiến lãm văn thảo, ký hiệu A.2652.

- Tổ tiễn hợp tập, ký hiệu A.397.

- Trướng đối tạp lục, ký hiệu VHv.1920.

- Ý ngữ tùng lục, ký hiệu A.432.

- Lịch đại chính hình thông khảo, ký hiệu A.1670.

Ngoài ra còn nhiều sách khác có ghi chép tác phẩm của ông, ở đây chỉ kể những cuốn chủ yếu:

- Danh gia thi tuyển, ký hiệu VHv.1603.

- Hàn các tạp lục, ký hiệu A.1463.

- Hàn uyển lưu phương, ký hiệu A.3166.

- Quốc triều thi lục, ký hiệu A.2864/1-5.

- Thi trướng tạp biện, ký hiệu VHv.1869.

Viện Sử học cũng còn giữ được hai cuốn sách chép tay mang tên Ngu Sơn văn tập, ký hiệu VH.154 và VH.155.

Núi Thúy Hoa [1]

Dịch xuôi

Dịch xuôi

Như cõi Bồng – Doanh, cảnh vui trên thiên giới, [2]

Như cảnh Giang Hán, phong lưu từ vạn cổ.

Một cái vịnh từ bể vào, khi trời tạnh như tấm gương,

Nghìn ngọn núi trùng điệp làm thành bức bình phong.

Trong cổng sâu, con sẻ trắng đậu trên cây xa mời,

Ban ngày vắng lặng, tiền chuông sớm vang lên rất trong.

Muốn tròe lên mấy bận thác Điều Thục,

Mây ngũ sắc ở nhiều nơi tạo nên cảnh Thần kinh.

Dịch thơ

Cảnh vui tiên giới ấy Bồng – Doanh,

Giang – Hán phong lưu vạn thuở tình.

Núi tiếp nghìn trùng vòng vách biếc,

Biển thông một vịnh dải gương xanh.

Cổng sâu, sẻ trắng cây mờ đậu,

Ngày cắng, chuông mai tiếng thật thanh.

Cũng muốn trèo lên Điều Thục tháp,

Kìa mây năm sắc dựng Thần kinh.

Tiễn Kinh doãn Nguyễn Công Trứ về trí sĩ [3]

Dịch xuôi

Sương gió trải bốn triều, bảy chục tuổi còn sót lại,

Cái chí da ngựa bọc thây lúc ban đầu, nay tuổi già không theo được[4].

Hồn kẻ sĩ tan đi rồi, bụi còn két lại trên kiếm,

Sau khi tiêu khiển với con hát, tuyết trắng chòm râu.[5]

Nơi cửa khuyết như trời cao, mà vẫn gần cận áng mây hồng,

Chốn cổng thành buổi chiều tà, thơ thẩn cưỡi con bò đỏ.[6]

Ơn kết cỏ ngậm vành, tấm lòng son mong báo đền trọn vẹn,

Thân thể nay được thảnh thơi, đó là ơn riêng của nhà vua.

Dịch thơ

Bảy chục phong sương tải bốn trào,

Chí trai da ngựa, sức còn đâu.

Hồn tan tử sĩ, ô hoen kiếm,

Tiệc vẫn ca nhi, bạc trắng đầu.

Cung khuyết cận kề vầng rang đỏ,

Chiều tà ngất ngưởng cưỡi bò nâu.

lòng son kết cỏ mong đền đáp,

Thư thái than già, ơn ấy sâu.

Hòa Nhung luận

Bàn về việc hòa với rợ Nhung [7]

Một chữ hòa làm lầm nhà Tống ngàn đời sau gọi Tần Cối [8] là giặc. Người quân tử nói: "Cối làm lầm nhà Tống, nhưng người tạo nên cái lầm của Cối chính là Trương Tuấn[9]. Tuấn không đáng trách ư? Khi xe hai vua Huy, vua Khâm đi lên Bắc[10], giặc Kim càn rỡ, tình thế lúc này không ngoài hòa và chiến mà thôi.

Trương Tuấn là một chiến tướng, được vua Cao Tông dựa chắc, vua tôi tin nhau, xưa nay có một, hai lần cầm quân ra trận đã vét rỗng nước để chi viện. Nếu Trương Tuấn có lòng trung như Lý Cương, Triệu Đỉnh,[11] có mưu lược như Nhạc Phi, Hàn Thế Trung,[12] đánh một trận đuổi được Ngột Truật,[13] đánh hai trận uống rượu mừng ở kinh đô Hoàng Long [14] thì dù Cối là kẻ đại gian, đâu dám hé miệng nói hòa. Mà dù có nói, vua Cao Tông đâu mắc sai lầm đó. Chỉ vì Trương Tuấn kém biết người, non mưu lược, tin Lữ Chỉ, ngờ Triệu Đỉnh, nghi kỵ Nhạc Phi, hai lần đốc quân thì hai lần thua chạy, năm này qua năm khác, không lập được chút công nào, mới khiến lòng vua nao núng, việc bàn hòa mới nhen lên. Cối biết vua Cao Tông rất sợ dùng binh, do đó sớm dâng một lời, chiều đặt một chuyện, tán dương thanh thế của giặc để dọa dẫm. Đến khi biết Cao Tông đã quyết chí hòa, vua hỏi lần đầu, y thưa: xin nhà vua nghĩ kỹ xem. Hỏi lần thứ hai, y lại thưa: xin nhà vua hãy nghĩ kỹ xem. Cứ dằng dai như thế để đổ lỗi cho vua, mà y thì mập mờ giữa chừng, che giấu cái tôi làm hỏng việc nước. Tâm sự kẻ quyền gian, đại thể là thế, nhưng tai mắt muôn đời đâu có thể che giấu nổi! Cối thực có tội hàng đầu, nhưng Tuấn tội đâu có nhẹ. Mặc dầu vậy, hòa với giặc không phải Tần Cối là người đi đầu. Trước đây, Ngụy Giáng khuyên vua Tấn hòa với rợ Nhung, mà rợ Nhung tôn thời vua Tấn.[15] Lưu Kính xin vua Hán hòa với Hung Nô mà vua Hán được chúa Thiền Vu tôn làm cha. Lưu Văn Tỉnh khuyên vua Đường hòa với Tây Vực mà vua Đường được chúa Khả Hãn tôn làm trời. Cối xui nhà Tống hòa với giặc Kim, xin xưng là em với anh cũng không xong; xin xưng là cháu với bác cũng không xong; cắt đất cũng không xong; cầu sống yên ở một nửa nước cũng không xong.[16]

Nếu không có cái lầm của nhà Tống thì đời sau chỉ biết cái lợi của chước hòa mà không thấy cái hại của nó, sẽ coi Tần Cối như Ngụy Giáng đời Tấn, như hai họ Lưu đời Hán, đời Đường, và chữ hòa trở nên một bức thành đồng kiên cố không sức nào phá nổi, mối lo về rợ Nhung cũng chẳng cần phải đặt ra nữa. Chỉ vì hòa vấp phải sai lầm, người đời sau coi đó làm gương hiểu rõ rợ Nhung là loài lang sói, không thể gần gũi được, không để kẻ khác ngủ ngáy trên giường của mình,[17] không thể đổi áo xiêm cho loài có mai có vẩy, không cần chờ tiếng khóc thống khổ của Giả Nghị,[18] lời bàn thống thiết của Hồ Dần,[19] mà người khôn kẻ dại đều rõ không nên hòa. Vạch lầm lỗi một nhà Tống, trăm nhà Tống lấy đó làm sợ. Kết tội một tên Cối, trăm tên Cối biết để làm răn. Cối có tội với nhà Tống, nhưng biết đâu chẳng có công với đời sau. Những người lo việc nước không nên chủ hòa như Tần Cối, cũng đừng nên chủ chiến như Trương Tuấn.

(Theo Thơ văn yêu nước và cách mạng Hà Nam Ninh – tập I. Trần Huy Bá – Nguyễn Xuân Tảo dịch)




  1. ^ Núi Thúy Hoa: ở phía bắc huyện Phú Vang, Thừa Thiên. Phía tây núi kề với phá Hà Trung. Núi này trước gọi là núi Mỹ An, thời Minh Mệnh (từ 1825) đổi làm Thúy Hoa, đến 1840 lại đổi làm Thúy Vân. Như thế, bài này làm trong khoảng 1825-1840.

  2. ^ Bồng – Doanh: tức Bồng Lai, Doanh Châu, tương truyền là hai trong số ba ngọn núi tiên ở ngoài biển.

  3. ^ Nguyễn Công Trứ (1778-1858) quê làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông đỗ cử nhân đầu bảng năn 1819, làm quan trải bốn triều Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức. Ông vừa là văn thần, vừa là võ tướng, có tài thao lược, nhiều phen đánh dẹp giặc giã, lại vừa có tài kinh tế, đã khai khẩn ra hai huyện Kim Sơn, Tiền Hải, nhưng cũng nhiều phen bị giáng phạt, từ Thượng thư xuống đến lính thú. Ông lại là một nhà thơ nổi tiếng tài hoa. Trước khi về hưu, ông làm Kinh doãn trông coi phủ Thừa Thiên – nơi có kinh đô Huế.

  4. ^ Chí da ngựa bọc thây: chí xông pha trận mạc, không nể sống chết.

  5. ^ Ông là người phong tình, rất thích hát ả đào và đã làm nhiều bà hát ca trù nổi tiếng. Khi về hưu còn cưới nàng hầu

  6. ^ Tương truyền, khi về hưu ông hay cưỡi con bò cái đi chơi, như một thú ngông nhàn.

  7. ^ Bài này đã đưa Tự Đức xem. Ý tác giả muốn lấy Bắc sử, thời Nam Tống để trình bày quan điểm của mình về chiến hay hòa, một cuộc đấu tranh quan điểm gay gắt ở triều Nguyễn thuở ấy.

  8. ^ Tần Cối: Tể tướng triều vua Cao Tông thời Nam Tống, Trung Quốc. Hắn chủ hòa với giặc Kim, tìm cách hãm hại những người chủ chiến, cho nên đời sau nguyền rủa hắn, gọi là Tần gian.

  9. ^ Trương Tuấn: một danh tướng chủ chiến thời Nam Tống nhưng kém tài.

  10. ^ Huy, Khâm: hai vua cuối đời Bắc Tống bị giặc Kim bắt đưa lên Bắc. Tống sử kiêng chép bị bắt, mà nói là xe vua lên Bắc.

  11. ^ Lý Cương, Triệu Đỉnh: hai tôi trung thời Bắc Tống.

  12. ^ Nhạc Phi, Hàn Thế Trung: hai danh tướng chủ chiến thời Nam Tống. Nhạc Phi bị Tần Cối hãm hại năm mới 39 tuổi.

  13. ^ Ngột Truật: con vua Kim, người cầm quân đánh Tống.

  14. ^ Hoàng Long: kinh đô nước Kim.

  15. ^ Ngụy Giáng: người thời Chiến quốc, khuyên vua Tấn hòa với các bộ tộc Nhung có năm điều lợi. Vua Tấn nghe theo.

  16. ^ Nhà Tống xin hòa với nước Kim, bị nước Kim lấn dần từng bước, hàng năm phải nộp vàng, lụa cho Kim mỗi ngày một nhiều, cuối cùng vẫn bị Kim chiếm mất nước.

  17. ^ Theo Tống sử, Tống Thái Tổ đi đánh Giang Nam, Giang Nam cử người đến xin nhà vua hoãn binh, Tống Thái Tổ nói: "không thể để kẻ khác ngủ ngáy bên gường của mình được".

  18. ^ Giả Nghị: người thời Tây Hán có bài sách tâu Hán văn Đế, nói về chính sự thời đó đáng đau khóc.

  19. ^ Hồ Dần: người thời Nam Tống. Thấy giặc Kim xâm lấn đất nước, Dần dâng sớ nói về thời cuộc, lời lẽ rất thống thiết.







Comments

Popular posts from this blog

Bạo động tại Ürümqi, tháng 7 năm 2009 – Wikipedia tiếng Việt

Bạo loạn Tân Cương (tiếng Anh: Xinjiang riots ), hay Vụ bạo động tại Ürümqi (tiếng Anh: July 2009 Ürümqi riots ), thủ phủ của khu tự trị dân tộc Duy Ngô Nhĩ Tân Cương ở miền Tây Trung Quốc xảy ra vào đêm ngày 5 tháng 7 năm 2009. Vụ bạo động bao gồm 1.000 người [2] [3] [4] tham gia và sau đó đã tăng lên tới khoảng 3.000 người [5] . Ít nhất đã có 184 người chết, trong đó có 137 là người Hán và 46 là người Duy Ngô Nhĩ và 1 người Hồi. [1] Đây được coi là vụ bạo lực sắc tộc tồi tệ nhất Trung Quốc, diễn ra sau một năm khi xảy ra vụ bạo động Tây Tạng 2008. Bạo lực là một phần của cuộc xung đột sắc tộc đang diễn ra giữa người Hán và người Uyghur (phiên âm Hán: Duy Ngô Nhĩ) - một dân tộc gốc Turk chủ yếu theo đạo Hồi và là một trong những nhóm sắc tộc được công nhận chính thức tại Trung Quốc. Nhiều người cho rằng vụ bạo động bùng phát bởi sự bất mãn với cách giải quyết của chính quyền trung ương Trung Quốc về cái chết của hai công nhân người Uyghur tại tỉnh Quảng Đông [6] [7] . Tân Hoa xã n

Bài tấn – Wikipedia tiếng Việt

Tấn là cách chơi bài của Nga, du nhập vào Việt Nam, được chơi bởi 2-4 người. Đây là một trong những cách chơi thông dụng của bộ bài Tây. Trò này bắt nguồn từ nước Nga, với tên Durak (thằng ngốc - dùng để chỉ người còn bài cuối cùng). Các lá bài [ sửa | sửa mã nguồn ] 5 quân lớn trong bộ tú lơ khơ. Trò chơi sử dụng bộ bài tiêu chuẩn (gồm 52 lá bài). Xếp hạng "độ mạnh" của các quân bài theo thứ tự giảm dần như sau: A (đọc là át, ách hay xì)> K (đọc là ca hay già)> Q (đọc là quy hay đầm)> J (đọc là gi hay bồi)> 10> 9> 8> 7> 6> 5> 4> 3> 2. Lá bài A là lá mạnh nhất và lá 2 là lá bài yếu nhất. Chia bài, chọn nước bài chủ [ sửa | sửa mã nguồn ] Chơi từ 2-4 người. Người chơi quyết định ai là người chia. Mỗi người 8 quân bài, chọn chiều chia bài là chia ngược chiều (hoặc theo chiều) kim đồng hồ (chiều chia bài cũng là chiều đánh), sau khi chia xong bốc thêm một lá để quyết định chất chủ (hoặc chất trưởng). Lá bốc được mang chất nào (Cơ, Rô, C

Mitsubishi – Wikipedia tiếng Việt

Mitsubishi Group Ngành nghề Tập đoàn Thành lập 1870 Người sáng lập Iwasaki Yataro Trụ sở chính Tokyo, Nhật Bản Khu vực hoạt động Toàn cầu Nhân viên chủ chốt CEO, Ken Kobayashi Sản phẩm Khai khoáng, công nghiệp đóng tàu, viễn thông, tài chính, bảo hiểm, điện tử, ô tô, xây dựng, công nghiệp nặng, dầu khí, địa ốc, thực phẩm, hóa chất, luyện kim, hàng không... Doanh thu US$ 248.6 tỉ (2010) Lợi nhuận ròng US$ 7.2 tỉ (2010) Số nhân viên 350,000 (2010) Website Mitsubishi .com Logo của Mitsubishi là ba củ ấu chụm vào nhau Mitsubishi là một tập đoàn công nghiệp lớn của Nhật Bản. Công ty Mitsubishi đầu tiên là một công ty chuyển hàng thành lập bởi Yataro Iwasaki (1834–1885) năm 1870. Năm 1873, tên công ty được đổi thành Mitsubishi Shokai (三菱商会: Tam Lăng thương hội). Tên Mitsubishi (三菱) có hai phần: " mitsu " tức tam có nghĩa là " ba " và " hishi " tức lăng (âm " bishi " khi ở giữa chữ) có nghĩa là " củ ấu ", loại củ có hai đầu nhọn. Từ ngu