Skip to main content

Trường trung học Phan Thanh Giản (Cần Thơ) – Wikipedia tiếng Việt

Trường trung học Phan Thanh Giản, tiền thân là Collège de Cần Thơ là một trường trung học tại Cần Thơ. Thành lập năm 1917, trường là một trong các cơ sở giáo dục lâu đời nhất của Cần Thơ và Việt Nam.

Trải qua nhiều thay đổi, từ Tháng 11 năm 1985, trường được đổi tên thành Trường Trung học Phổ thông Châu Văn Liêm.





Ngày 17.3.1879, Collège de Mỹ Tho (nay là trường trung học Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho) được thành lập. Vì số học sinh quá đông, nên đến năm 1917, trường Mỹ Tho mở một chi nhánh ở Cần Thơ với tên gọi Collège Cần Thơ [1]. Học sinh học xong lớp bổ túc tiểu học (Cours Complémentaire) ở Collège Cần Thơ sẽ được chuyển sang học ở Collège Mỹ Tho cho đến hết năm thứ tư (4e Année de l'Enseignement Primaire Superieur Franco Indigène, tương đương lớp 9 hiện nay). Mãi đến những năm 1924-1926, khi đã mở đủ các lớp thuộc bậc Cao đẳng tiểu học, Collège Cần Thơ mới tách riêng ra và không còn là chi nhánh tuỳ thuộc Collège Mỹ Tho nữa [1].

Lúc đầu, trường chỉ có một dãy tầng lầu, còn được dùng làm nơi nội trú cho học sinh của trường Sơ Học tỉnh Cần Thơ ở đối diện [2].. Đến năm 1921, trường xây hoàn tất dãy lầu thứ hai và thêm những kiến trúc phụ thuộc nối liền hai dãy lầu [2].

Tháng 6 năm 1929, và cũng là lần đầu tiên, trường Collège Cần Thơ chính thức gởi thí sinh thi Brevet ElémentaireBrevet D'Enseignement Primaires Supériers Franco Indigènes (bằng Cao đẳng tiểu học Pháp, tương đương với bằng tốt nghiệp cấp 2 hiện nay, lúc đó bằng cấp này đã là khá cao trong xã hội). Số thí sinh ghi là 21, ngoài trừ 1 người bỏ cuộc, còn tất cả 20 đều đậu [2].

Trong giai đoạn Chiến tranh Đông Dương, 1941-1942, trường cũ bị sung công và chỉ đến năm 1956 mới trả lại cho trường [3].


Sau năm 1945[sửa | sửa mã nguồn]


Bắt đầu từ tháng 8 năm 1945 trường chính thức lấy tên là trường Trung học Phan Thanh Giản [2]. Giai đoạn 1956-1975 là giai đoạn có số lớp học cao nhất trong lịch sử của trường, gồm 112 lớp Ðệ Nhất cấp (tương đương trung học cấp 2 hiện nay) và Ðệ Nhị cấp (cấp 3) với hai môn sinh ngữ Anh văn và Pháp văn[3]. Đến niên học 1963-1964, khu trường Ðệ Nhất cấp Nam (cấp 3 trung học) chuyển sang khu trường Phan Thanh Giản cũ để giao trường mới (dùng từ năm 1942, khi trường cũ bị sung công) lại và Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng hòa thành lập trường Nữ trung học Đoàn Thị Điểm, từ đó trường Phan Thanh Giản là trường chỉ còn có học sinh nam [3].


Sau năm 1975[sửa | sửa mã nguồn]


Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, trường tách ra làm 2, Ðệ Nhị Cấp (Cấp 3 hiện nay) sang học ở Khu trường mới (tức trường Ðoàn Thị Ðiểm cũ), Ðệ Nhất Cấp (tức cấp 2 hiện nay) học ở trường Phan Thanh Giản và đổi tên là Trường An Cư 1 [3].

Đến năm 1983, Cấp 3 trở lại trường Phan Thanh Giản cũ (trường An Cư 1) và cấp 2 học rải rác trong nhiều phường, gọi là Phổ thông Cơ sở. Trường Đoàn Thị Điểm cũ mang tên Phổ thông cơ sở An Cư 1 còn Trường cấp 3 (Phan Thanh Giản cũ) mang tên Trường Phổ thông Trung học Cần Thơ [3].


Sau năm 1985[sửa | sửa mã nguồn]


Vào tháng 11 năm 1985, trường đổi tên là trường Trung học phổ thông Châu Văn Liêm.
Trường Phổ thông cơ sở An Cư 1 đã được trở về tên cũ là trường trung học Đoàn Thị Điểm từ năm học 1992-1993 về sau [3].





  • 1921-1924: Ông Paul Espelette

  • 1924-1925: Ông Louis Reybouder

  • 1926-1926: Ông Louis Boulliard

  • 1927-1929: Ông Pierre Manière

  • 1930-1930: Ông C. Cadilion

  • 1931-1931: Ông A. Bizot

  • 1931-1934: Ông Charles Paquier

  • 1934-1935: Ông Gabriel Jalat

  • 1935-1936: Ông Charles Paquier

  • 1936-1937: Ông V. Vincenti

  • 1937-1944: Ông P. de Fautereauvassel

  • 1944-1945: Ông Maurice Lamarre

  • 1946-1946: Ông Nguyễn Bá Cường

  • 1947-1947: Ông Trương Vĩnh Khánh

  • 1947-1949: Ông Nguyễn Bá Cường

  • 1950-1951: Ông Dương Văn Dỏi

  • 1952-1957: Ông Nguyễn Băng Tuyết

  • 1957-1957: Ông Bửu Trí

  • 1957-1962: Ông Nguyễn Văn Kính

  • 1962-1964: Ông Lưu Khôn

  • 1964-1967: Ông Phạm Văn Đàm

  • 1967-1970: Ông Nguyễn Trung Quân

  • 1970-1971: Ông Phạm Duy Khiêm

  • 1971-1973: Ông Trương Quang Minh

  • 1973-1975: Ông Võ Văn Trí [3]




Comments

Popular posts from this blog

Bạo động tại Ürümqi, tháng 7 năm 2009 – Wikipedia tiếng Việt

Bạo loạn Tân Cương (tiếng Anh: Xinjiang riots ), hay Vụ bạo động tại Ürümqi (tiếng Anh: July 2009 Ürümqi riots ), thủ phủ của khu tự trị dân tộc Duy Ngô Nhĩ Tân Cương ở miền Tây Trung Quốc xảy ra vào đêm ngày 5 tháng 7 năm 2009. Vụ bạo động bao gồm 1.000 người [2] [3] [4] tham gia và sau đó đã tăng lên tới khoảng 3.000 người [5] . Ít nhất đã có 184 người chết, trong đó có 137 là người Hán và 46 là người Duy Ngô Nhĩ và 1 người Hồi. [1] Đây được coi là vụ bạo lực sắc tộc tồi tệ nhất Trung Quốc, diễn ra sau một năm khi xảy ra vụ bạo động Tây Tạng 2008. Bạo lực là một phần của cuộc xung đột sắc tộc đang diễn ra giữa người Hán và người Uyghur (phiên âm Hán: Duy Ngô Nhĩ) - một dân tộc gốc Turk chủ yếu theo đạo Hồi và là một trong những nhóm sắc tộc được công nhận chính thức tại Trung Quốc. Nhiều người cho rằng vụ bạo động bùng phát bởi sự bất mãn với cách giải quyết của chính quyền trung ương Trung Quốc về cái chết của hai công nhân người Uyghur tại tỉnh Quảng Đông [6] [7] . Tân Hoa xã n

Bài tấn – Wikipedia tiếng Việt

Tấn là cách chơi bài của Nga, du nhập vào Việt Nam, được chơi bởi 2-4 người. Đây là một trong những cách chơi thông dụng của bộ bài Tây. Trò này bắt nguồn từ nước Nga, với tên Durak (thằng ngốc - dùng để chỉ người còn bài cuối cùng). Các lá bài [ sửa | sửa mã nguồn ] 5 quân lớn trong bộ tú lơ khơ. Trò chơi sử dụng bộ bài tiêu chuẩn (gồm 52 lá bài). Xếp hạng "độ mạnh" của các quân bài theo thứ tự giảm dần như sau: A (đọc là át, ách hay xì)> K (đọc là ca hay già)> Q (đọc là quy hay đầm)> J (đọc là gi hay bồi)> 10> 9> 8> 7> 6> 5> 4> 3> 2. Lá bài A là lá mạnh nhất và lá 2 là lá bài yếu nhất. Chia bài, chọn nước bài chủ [ sửa | sửa mã nguồn ] Chơi từ 2-4 người. Người chơi quyết định ai là người chia. Mỗi người 8 quân bài, chọn chiều chia bài là chia ngược chiều (hoặc theo chiều) kim đồng hồ (chiều chia bài cũng là chiều đánh), sau khi chia xong bốc thêm một lá để quyết định chất chủ (hoặc chất trưởng). Lá bốc được mang chất nào (Cơ, Rô, C

Mitsubishi – Wikipedia tiếng Việt

Mitsubishi Group Ngành nghề Tập đoàn Thành lập 1870 Người sáng lập Iwasaki Yataro Trụ sở chính Tokyo, Nhật Bản Khu vực hoạt động Toàn cầu Nhân viên chủ chốt CEO, Ken Kobayashi Sản phẩm Khai khoáng, công nghiệp đóng tàu, viễn thông, tài chính, bảo hiểm, điện tử, ô tô, xây dựng, công nghiệp nặng, dầu khí, địa ốc, thực phẩm, hóa chất, luyện kim, hàng không... Doanh thu US$ 248.6 tỉ (2010) Lợi nhuận ròng US$ 7.2 tỉ (2010) Số nhân viên 350,000 (2010) Website Mitsubishi .com Logo của Mitsubishi là ba củ ấu chụm vào nhau Mitsubishi là một tập đoàn công nghiệp lớn của Nhật Bản. Công ty Mitsubishi đầu tiên là một công ty chuyển hàng thành lập bởi Yataro Iwasaki (1834–1885) năm 1870. Năm 1873, tên công ty được đổi thành Mitsubishi Shokai (三菱商会: Tam Lăng thương hội). Tên Mitsubishi (三菱) có hai phần: " mitsu " tức tam có nghĩa là " ba " và " hishi " tức lăng (âm " bishi " khi ở giữa chữ) có nghĩa là " củ ấu ", loại củ có hai đầu nhọn. Từ ngu