Skip to main content

Invincible (album của Michael Jackson) – Wikipedia tiếng Việt

Invincible là album phòng thu cuối cùng của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Michael Jackson, phát hành ngày 30 tháng 10 năm 2001, bởi Epic Records.[2] Đây là album phòng thu thứ mười của Jackson, và là album thứ sáu được phát hành thông qua Epic. Nó là sản phẩm âm nhạc đầu tiên của nam ca sĩ kể từ album phối lại Blood on the Dance Floor: HIStory in the Mix (1997), là album phòng thu đầu tiên của ông trong 6 năm kể từ HIStory: Past, Present and Future, Book I (1995) cũng như là album đầu tiên với toàn bộ những bài hát mới kể từ Dangerous (1991). Bìa album là hình ảnh cận mặt của Jackson được biểu hiện qua năm màu sắc khác nhau - đỏ, xanh lá cây, vàng cam, xanh da trời và bạc. Tương tự như những album trước của Jackson, Invincible tập trung khai thác những chủ đề như tình yêu, lãng mạn, sự cô lập, những chỉ trích của giới truyền thông, và các vấn đề xã hội, với sự tham gia hợp tác của nhiều cộng sự lâu năm của nam ca sĩ như: Rodney Jerkins, Teddy Riley và R. Kelly. Nó nhận được những đánh giá trái chiều từ các nhà phê bình âm nhạc đương đại.

Được xem là album tốn kém nhất trong sự nghiệp của Jackson, Invincible bắt đầu được sản xuất vào năm 1997 và chỉ hoàn thành trong 8 tuần trước khi phát hành album. Nó được thu âm tại hơn 10 phòng thu âm khác nhau với chi phí thực hiện là hơn 30 triệu đô la. Kết hợp với 25 triệu đô la nếu tính cả chi phí quảng bá album, Invincible được xem là album đắt đỏ nhất từ trước đến nay. Sau khi phát hành, nó đạt vị trí số một tại 11 quốc gia thuộc vùng lãnh thổ trên toàn thế giới, bao gồm Hoa Kỳ (với doanh số 363.000 bản trong tuần đầu), Vương quốc Anh, Úc, Pháp và Thụy Sĩ. Album cũng lọt vào top 10 tại 6 quốc gia khác. Tính đến nay, nó đã bán được hơn 13 triệu bản trên toàn thế giới.[3]

Do những tranh chấp giữa Jackson và hãng đĩa,[4] tiến trình quảng bá cho album diễn ra rất ít ỏi. Ba đĩa đơn đã được phát hành từ album, mặc dù tất cả đều chỉ phát hành giới hạn. Đĩa đơn chủ đạo "You Rock My World" chỉ được phát hành hạn chế trên radio, do đó chỉ đạt vị trí thứ 10 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100. Trên toàn cầu, nơi mà nó đã được phát hành thương mại rộng rãi, bài hát đã thành công hơn, khi đạt ngôi quán quân trên năm bảng xếp hạng, trong khi "Speechless" được phát hành trên sóng radio ở Hàn Quốc. Đĩa đơn chính thức thứ hai, "Cry", không được phát hành tại Hoa Kỳ và đạt được thành công khiêm tốn trên các bảng xếp hạng. Đĩa đơn cuối cùng, "Butterflies" cũng chỉ được quảng bá tại Hoa Kỳ trên radio, do đó chỉ có thể vươn lên hạng 14 bảng xếp hạng đĩa đơn tại đây.





Trong khoảng thời gian làm thành viên của The Jackson 5, Jackson thường xuyên đóng góp nhiều sáng tác cho nhóm và bắt đầu thực hiện nhiều dự án trên danh nghĩa nghệ sĩ solo, trong đó bao gồm album bán chạy nhất mọi thời đại Thriller (1982), bán được hơn 65 triệu bản kể từ khi phát hành, vô hình tạo nên áp lực cho các dự án sau của Jackson. Trước khi ra mắt Invincible, sản phẩm âm nhạc gần nhất của ông là Blood on the Dance Floor: HIStory in the Mix (1997), còn album phòng thu đã không phát hành trong 6 năm (HIStory: Past, Present and Future, Book I). Invincible được Jackson đánh dấu là "sự trở về đúng nghĩa cho sự nghiệp".[5]

Invincible là một sự tri ân của Jackson dành cho cậu bé 15 tuổi người Na Uy Benjamin "Benny" Hermansen, người đã bị đâm chết bởi một nhóm các phần tử phát xít ở Oslo, Na Uy, vào tháng 1 năm 2001.[6] Mặt khác, lý do của hành động trên là vì Omer Bhatti, một người bạn của Jackson, cũng là người bạn thân thiết của Hermansen.[6] Album này cũng thể hiện tình cảm yêu thương của Jackson dành cho bà Nicholette Sottile và cha mẹ của ông Joseph và Katherine Jackson.[6]



Jackson bắt đầu thực hiện những chất liệu mới cho album vào tháng 10 năm 1997, và kết thúc với việc thu âm "You Are My Life" chỉ 8 tuần trước ngày nó ra lò, trở thành album tốn kém thời gian nhất trong sự nghiệp của Jackson.[7] Những bài hát hợp tác với Rodney Jerkins được thu âm tại The Hit Factory ở Miami, Florida.[8] Jackson mong muốn có sự tham gia của ít nhất một rapper trong một bài hát, và phải là "rapper nổi tiếng".[2] Phát ngôn viên của Jackson đề nghị raper Fats đến từ New Jersey; sau khi Jackson nghe bản hoàn thiện của các bài hát, cả hai đồng ý thu âm cùng nhau một bài hát khác cho album.[2]Rodney Jerkins nói rằng Jackson đang tìm tòi một định hướng âm nhạc mới so với trước.[2] Jackson đóng vai trò sáng tác và sản xuất ở phần lớn các bài hát trong Invincible. Ngoài Jackson, album còn có sự góp sức từ Teddy Riley, Andre Harris, Andraeo "Fanatic" Heard, Kenneth "Babyface" Edmonds, R. Kelly và Dr. Freeze Bill Gray và hỗ trợ viết lời từ Kelly, Fred Jerkins III, LaShawn Daniels, Nora Payne và Robert Smith.[9] Album đánh dấu lần thứ 3 Jackson và Riley cộng tác cùng nhau, hai lần trước là trong DangerousBlood on the Dance Floor: HIStory in the Mix. Việc thực hiện Invincible tiêu tốn 30 triệu đô-la,[10] trở thành album đắt nhất từng được thực hiện.[11]



Sony Music đã chi ra 25 triệu đô la để quảng bá Invincible.[10][12] Mặc dù vậy, do những xung đột giữa Jackson và hãng thu âm, album không nhận được sự tiếp thị đáng kể nào.[13] Album sản sinh ba đĩa đơn, mặc dù tất cả đều phát hành giới hạn. "You Rock My World" chỉ được phát hành trên sóng phát thanh tại Hoa Kỳ, do đó chỉ có thể vươn đến vị trí thứ 10 trên Billboard Hot 100. Trên thị trường quốc tế, nơi mà nó được phát hành thương mại, bài hát đã thành công hơn, đạt hạng nhất tại Pháp, top 2 tại Na Uy, Phần Lan, Đan Mạch, Bỉ và Vương quốc Anh, top 5 tại Ý, Úc, Thụy Điển và Thụy Sĩ.[14] Đĩa đơn thứ hai, "Cry", không được phát hành tại Hoa Kỳ, và cũng chỉ đạt những vị trí tương đối ở các khu vực khác.[15]

Đĩa đơn thứ ba và cũng là cuối cùng, "Butterflies", chỉ phát hành trên sóng phát thanh Hoa Kỳ, và đạt vị trí thứ 14 trên Billboard Hot 100 và thứ hai trong 5 tuần trên Hot R&B/Hip-Hop Singles Chart.[16] Dù không phát hành chính thức, "Heaven Can Wait" cũng đạt vị trí thứ 72 trên R&B/Hip-Hop Charts do lượt yêu cầu trên sóng phát thanh.[16] "Unbreakable" ban đầu được dự định sẽ phát hành làm đĩa đơn, nhưng sau cùng đã bị hủy bỏ.[17] Tuy nhiên, sau đó nó cũng xuất hiện trong box set The Ultimate Collection.

Khác với những album phát hanh lúc trưởng thành của Jackson, không có tour diễn thế giới nào để quảng bá cho album. Thay vào đó, một chương trình đặc biệt kỷ niệm 30 năm ca hát của ông đã diễn ra tại Madison Square Garden vào tháng 9 năm 2001, đánh dấu cột mốc Michael Jackson dưới danh nghĩa nghệ sĩ hát đơn. Ông biểu diễn "You Rock My World" trong Invincible và tái hợp cạnh các anh em mình trên sân khấu, lần đầu tiên kể từ Victory Tour (1984).[18] Chương trình còn có sự tham gia trình diễn của Whitney Houston, Britney Spears, Mýa, Usher, Tamia, 'N Sync, và Slash, cùng nhiều nghệ sĩ khác.[19] Buổi ghi hình phát sóng trên CBS vào tháng 10 năm 2001 kéo dài 2 giờ đã thu hút 29,8 triệu người xem.[20]

Sau quyết định chấm dứt mọi hành động quảng bá một cách đột ngột của Sony, vào tháng 7 năm 2002, Jackson đã gọi Mottola là một "con quỷ" và "kẻ phân biệt chủng tộc" vì không ủng hộ các nghệ sĩ Mỹ gốc Phi, mà chỉ đơn thuần sử dụng họ cho lợi ích cá nhân.[10][21] Nam ca sĩ còn cáo buộc Sony và ngành công nghiệp thu âm có hành vi phân biệt chủng tộc, cố tình ngăn cản việc quảng bá album của ông.[22] Sony sau đó tuyên bố rằng họ thừa nhận việc tiếp thị Invincible không đủ mạnh, tuy nhiên họ cũng đổ lỗi cho Jackson vì ông từ chối lưu diễn ở Hoa Kỳ.[22]

























































1. "Unbreakable" (hợp tác với The Notorious B.I.G.)Jackson, Daniels, Jerkis, Payne, Smith, Wallace 6:26
2. "Heartbreaker"  Jackson, Jerkins, Jerkins III, Daniels, Mischke, Gregg 5:09
3. "Invincible"  Jackson, Daniels, Gregg, Jerkins, Jerkins 4:46
4. "Break of Dawn"  Jackson, Dr. Freeze 5:32
5. "Heaven Can Wait"  Jackson, Riley, Heard, Smith, Beal, Laues, Quiller 4:49
6. "You Rock My World" (hợp tác với Chris Tucker)Jackson, Daniels, Jerkins, Jerkins, Payne 5:39
7. "Butterflies" (hợp tác với Marsha Ambrosius)Harris, Ambrosius 4:40
8. "Speechless"  Jackson 3:18
9. "2000 Watts"  Jackson, Riley, Gibson, Henson 4:24
10. "You Are My Life"  Jackson, Babyface, Sager, McClain 4:33
11. "Privacy"  Jackson, Belle, Daniels, Jerkins, Jerkins 5:05
12. "Don't Walk Away"  Jackson, Riley, Stites, Vertelney 4:24
13. "Cry"  R. Kelly 5:00
14. "The Lost Children"  Jackson 4:00
15. "Whatever Happens" (hợp tác với Carlos Santana)Jackson, Riley, Quay, Williams 4:56
16. "Threatened"  Jackson, Jerkins, Jerkins III, Daniels 4:18

Tổng thời lượng:

77:08





  1. ^ “Invincible”. AllMusic. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2009. 

  2. ^ a ă â b Jayson Rodriguez (ngày 25 tháng 6 năm 2009). “Michael Jackson's Musical Legacy, From The Jackson 5 To Invincible”. MTV. Viacom. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2010. 

  3. ^ Tamara Conniff (ngày 30 tháng 8 năm 2009). “We Killed Michael Jackson”. Huffington Post. HuffingtonPost.com, Inc. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2009. 

  4. ^ Taraborrelli, p. 614–617

  5. ^ Stephen Thomas Erlewine. “Michael Jackson: Invincible”. Allmusic. Rovi Corporation. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2010. 

  6. ^ a ă â Liz McNamaba (ngày 23 tháng 10 năm 2001). “Jacko dedicates Invincible to Benjamin”. Aftenposten. Schibsted ASA. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2010. [liên kết hỏng]

  7. ^ Brian Hiatt (ngày 21 tháng 12 năm 2000). “Michael Jackson Nearing Completion Of New LP”. MTV. Viacom. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2011. 

  8. ^ Linda Hobbs (ngày 5 tháng 9 năm 2009). “Rodney Jerkin's Talks MJ's Last Studio Album, Invincible”. Vibe. Viacom. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2010. 

  9. ^ Invincible liner notes Epic Records (2001).

  10. ^ a ă â Jennifer Vineyard (ngày 2 tháng 7 năm 2002). “Michael Jackson Shocks Al Sharpton By Calling Tommy Mottola A Racist”. MTV. Viacom. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2010. 

  11. ^ Branigan, Tania (ngày 8 tháng 9 năm 2001). “Jackson spends £20m to be Invincible”. The Guardian. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2013. 

  12. ^ Katherine Laidlaw (ngày 25 tháng 6 năm 2009). “Key Facts about Michael Jackson's life”. National Post. CanWest Global Communications. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2010. 

  13. ^ Taraborrelli, p. 611

  14. ^ “Michael Jackson - You Rock My World (chanson)”. LescCharts.com. Hung Medien. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2010. 

  15. ^ “Michael Jackson - Cry (chanson)”. LesCharts.com. Hung Medien. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2010. 

  16. ^ a ă “allmusic (((Invincible > Charts & Awards > Billboard Singles)))”. Allmusic. Rovi Corporation. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2010. 

  17. ^ Invincible pack-on-stocker Epic Records (2001).

  18. ^ Tania Branigan (ngày 8 tháng 9 năm 2001). “Jackson spends £20m to be Invincible”. The Guardian (London: Guardian Media Group). Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2010. 

  19. ^ George, p. 50–53

  20. ^ “Jackson's CBS Special Moonwalks Over Rivals”. Billboard. Ngày 15 tháng 11 năm 2001. 

  21. ^ Taraborrelli, p. 610–611

  22. ^ a ă Bernard Zuel (ngày 20 tháng 11 năm 2003). “Falling star”. The Sydney Morning Herald (Fairfax Media). Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2010. 

  23. ^ a ă “Hits of the World” (PDF). Billboard. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2015. 

  24. ^ "Michael Jackson – Invincible". Australiancharts.com. Hung Medien.

  25. ^ "Michael Jackson - Invincible" (bằng tiếng Đức). Austriancharts.at. Hung Medien.

  26. ^ "Michael Jackson – Invincible" (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop.be. Hung Medien.

  27. ^ "Michael Jackson – Invincible" (bằng tiếng Pháp). Ultratop.be. Hung Medien.

  28. ^ "Michael Jackson Album & Song Chart History" Billboard Canadian Albums Chart cho Michael Jackson. Prometheus Global Media.

  29. ^ "Michael Jackson – Invincible". Danishcharts.com. Hung Medien.

  30. ^ a ă â “Hits of the World” (PDF). Billboard. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2015. 

  31. ^ "Michael Jackson – Invincible". Dutchcharts.nl. Hung Medien.

  32. ^ "Michael Jackson: Invincible" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland.

  33. ^ "Michael Jackson – Invincible". Lescharts.com. Hung Medien.

  34. ^ “Michael Jackson - Offizielle Deutsche Charts” (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2015. 

  35. ^ “Greek Charts - Are There Online Archives?”. UKMix. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2015. 

  36. ^ "GFK Chart-Track". Chart-Track.co.uk. GFK Chart-Track. IRMA.

  37. ^ "Michael Jackson – Invincible". Italiancharts.com. Hung Medien.

  38. ^ a ă “Gli album più venduti del 2001” (bằng tiếng Ý). Hit Parade Italia. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2014. 

  39. ^ “Hits of the World” (PDF). Billboard. 24 tháng 11 năm 2002. tr. 45. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2015. 

  40. ^ “Top 100 México”. MexicanCharts.com. Hung Medien. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2010. 

  41. ^ "Michael Jackson – Invincible". Charts.org.nz. Hung Medien.

  42. ^ "Michael Jackson – Invincible". Norwegiancharts.com. Hung Medien.

  43. ^ “Oficjalna lista sprzedaży”. OLiS. 12 tháng 11 năm 2001. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2011. 

  44. ^ "Michael Jackson – Invincible". Portuguesecharts.com. Hung Medien. Truy cập 6 tháng 9 năm 2016.

  45. ^ "2001-11-04 Top 40 Scottish Albums Archive | Official Charts". UK Albums Chart. The Official Charts Company.

  46. ^ “Music Divas & Rock Bands Top South African Certifications” (bằng tiếng Anh). RISA. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2016. 

  47. ^ "Michael Jackson – Invincible". Swedishcharts.com. Hung Medien.

  48. ^ "Michael Jackson – Invincible". Swisscharts.com. Hung Medien.

  49. ^ "2001-11-04 Top 40 Official UK Albums Archive | Official Charts". UK Albums Chart. The Official Charts Company. Truy cập 21 tháng 5 năm 2016.

  50. ^ "2001-11-04 Top 40 R&B Albums Archive | Official Charts". UK Albums Chart. The Official Charts Company.

  51. ^ "Michael Jackson Album & Song Chart History" Billboard 200 cho Michael Jackson. Prometheus Global Media.

  52. ^ "Michael Jackson Album & Song Chart History" Billboard Top R&B/Hip Hop Albums cho Michael Jackson. Prometheus Global Media. Truy cập 2 tháng 6 năm 2012.

  53. ^ “ARIA Charts - End Of Year Charts - Top 100 Albums 2001”. ARIA. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2014. 

  54. ^ “Jaaroverzichten 2001” (bằng tiếng Dutch). Ultratop. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2014. 

  55. ^ “Rapports annueles 2002” (bằng tiếng Pháp). Ultratop. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2014. 

  56. ^ “Chart of the Year 2001”. Mogens Nielsen. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2014. 

  57. ^ “Jaaroverzichten - Album 2001” (bằng tiếng Dutch). Hung Medien. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2014. 

  58. ^ “Myydyimmät ulkomaiset albumit vuonna 2001” (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2014. 

  59. ^ “Classement Albums - année 2001” (bằng tiếng Pháp). SNEP. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2014. 

  60. ^ Nielsen Business Media, Inc (26 tháng 2 năm 2002), “Dido, Linkin Park Lead The Global 20 Of 2001”, Billboard, truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2014 

  61. ^ “Top 100 Album-Jahrescharts” (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2015. 

  62. ^ “Årslista Album - År 2001” (bằng tiếng Thụy Điển). Grammofon Leverantörernas Förening. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2014. 

  63. ^ “Swiss Year-end Charts 2002”. Hung Medien. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2014. 

  64. ^ “The Official UK Albums Chart 2001” (PDF). UK Charts Plus. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2014. 

  65. ^ a ă “2002 Year-end Charts” (PDF). Billboard. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2015. 

  66. ^ “Argentina album certifications – Michael Jackson – Invincible”. Argentine Chamber of Phonograms and Videograms Producers. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2014. 

  67. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2001 Albums”. Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2014. 

  68. ^ “Austrian album certifications – Michael Jackson – Invincible” (bằng tiếng Đức). IFPI Áo. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2014.  Nhập Michael Jackson vào ô Interpret (Tìm kiếm). Nhập Invincible vào ô Titel (Tựa đề). Chọn album trong khung Format (Định dạng). Nhấn Suchen (Tìm)

  69. ^ a ă “Finland album certifications – Michael Jackson – Invincible” (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2014. 

  70. ^ “France album certifications – Michael Jackson – Invincible” (bằng tiếng Pháp). Syndicat national de l'édition phonographique. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2014. 

  71. ^ “Gold-/Platin-Datenbank (Michael Jackson; 'Invincible')” (bằng tiếng Đức). Bundesverband Musikindustrie. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2014. 

  72. ^ “Certificaciones – Michael Jackson” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2014. 

  73. ^ “Netherlands album certifications – Michael Jackson – Invincible” (bằng tiếng Hà Lan). Nederlandse Vereniging van Producenten en Importeurs van beeld - en geluidsdragers. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2014. 

  74. ^ “New Zealand album certifications – Michael Jackson – Invincible”. Recorded Music NZ. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2014. 

  75. ^ “Norway album certifications – Michael Jackson – Invincible” (bằng tiếng Na Uy). IFPI Na Uy. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2014. 

  76. ^ “Poland album certifications – Michael Jackson – Invincible” (bằng tiếng Ba Lan). ZPAV. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2014. 

  77. ^ “Portugal album certifications – Michael Jackson – Invincible” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Associação Fonográfica Portuguesa. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2014. 

  78. ^ “Guld- och Platinacertifikat − År 2001” (PDF) (bằng tiếng Thụy Điển). IFPI Thụy Điển. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2014. 

  79. ^ “The Official Swiss Charts and Music Community: Awards (Michael Jackson; 'Invincible')”. IFPI Switzerland. Hung Medien. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2014. 

  80. ^ “Britain album certifications – Michael Jackson – Invincible” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2014.  Nhập Invincible vào ô Keywords. Chọn Title trong khung Search by. Chọn Album trong khung By Format. Nhấn Search

  81. ^ “American album certifications – Michael Jackson – Invincible” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2014.  Nếu cần, nhấn Advanced Search, dưới mục Format chọn Album rồi nhấn Search

  82. ^ “IFPI Platinum Europe Awards – 2001”. Liên đoàn Công nghiệp ghi âm quốc tế. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2014. 




Comments

Popular posts from this blog

Bạo động tại Ürümqi, tháng 7 năm 2009 – Wikipedia tiếng Việt

Bạo loạn Tân Cương (tiếng Anh: Xinjiang riots ), hay Vụ bạo động tại Ürümqi (tiếng Anh: July 2009 Ürümqi riots ), thủ phủ của khu tự trị dân tộc Duy Ngô Nhĩ Tân Cương ở miền Tây Trung Quốc xảy ra vào đêm ngày 5 tháng 7 năm 2009. Vụ bạo động bao gồm 1.000 người [2] [3] [4] tham gia và sau đó đã tăng lên tới khoảng 3.000 người [5] . Ít nhất đã có 184 người chết, trong đó có 137 là người Hán và 46 là người Duy Ngô Nhĩ và 1 người Hồi. [1] Đây được coi là vụ bạo lực sắc tộc tồi tệ nhất Trung Quốc, diễn ra sau một năm khi xảy ra vụ bạo động Tây Tạng 2008. Bạo lực là một phần của cuộc xung đột sắc tộc đang diễn ra giữa người Hán và người Uyghur (phiên âm Hán: Duy Ngô Nhĩ) - một dân tộc gốc Turk chủ yếu theo đạo Hồi và là một trong những nhóm sắc tộc được công nhận chính thức tại Trung Quốc. Nhiều người cho rằng vụ bạo động bùng phát bởi sự bất mãn với cách giải quyết của chính quyền trung ương Trung Quốc về cái chết của hai công nhân người Uyghur tại tỉnh Quảng Đông [6] [7] . Tân Hoa xã n

Bài tấn – Wikipedia tiếng Việt

Tấn là cách chơi bài của Nga, du nhập vào Việt Nam, được chơi bởi 2-4 người. Đây là một trong những cách chơi thông dụng của bộ bài Tây. Trò này bắt nguồn từ nước Nga, với tên Durak (thằng ngốc - dùng để chỉ người còn bài cuối cùng). Các lá bài [ sửa | sửa mã nguồn ] 5 quân lớn trong bộ tú lơ khơ. Trò chơi sử dụng bộ bài tiêu chuẩn (gồm 52 lá bài). Xếp hạng "độ mạnh" của các quân bài theo thứ tự giảm dần như sau: A (đọc là át, ách hay xì)> K (đọc là ca hay già)> Q (đọc là quy hay đầm)> J (đọc là gi hay bồi)> 10> 9> 8> 7> 6> 5> 4> 3> 2. Lá bài A là lá mạnh nhất và lá 2 là lá bài yếu nhất. Chia bài, chọn nước bài chủ [ sửa | sửa mã nguồn ] Chơi từ 2-4 người. Người chơi quyết định ai là người chia. Mỗi người 8 quân bài, chọn chiều chia bài là chia ngược chiều (hoặc theo chiều) kim đồng hồ (chiều chia bài cũng là chiều đánh), sau khi chia xong bốc thêm một lá để quyết định chất chủ (hoặc chất trưởng). Lá bốc được mang chất nào (Cơ, Rô, C

Mitsubishi – Wikipedia tiếng Việt

Mitsubishi Group Ngành nghề Tập đoàn Thành lập 1870 Người sáng lập Iwasaki Yataro Trụ sở chính Tokyo, Nhật Bản Khu vực hoạt động Toàn cầu Nhân viên chủ chốt CEO, Ken Kobayashi Sản phẩm Khai khoáng, công nghiệp đóng tàu, viễn thông, tài chính, bảo hiểm, điện tử, ô tô, xây dựng, công nghiệp nặng, dầu khí, địa ốc, thực phẩm, hóa chất, luyện kim, hàng không... Doanh thu US$ 248.6 tỉ (2010) Lợi nhuận ròng US$ 7.2 tỉ (2010) Số nhân viên 350,000 (2010) Website Mitsubishi .com Logo của Mitsubishi là ba củ ấu chụm vào nhau Mitsubishi là một tập đoàn công nghiệp lớn của Nhật Bản. Công ty Mitsubishi đầu tiên là một công ty chuyển hàng thành lập bởi Yataro Iwasaki (1834–1885) năm 1870. Năm 1873, tên công ty được đổi thành Mitsubishi Shokai (三菱商会: Tam Lăng thương hội). Tên Mitsubishi (三菱) có hai phần: " mitsu " tức tam có nghĩa là " ba " và " hishi " tức lăng (âm " bishi " khi ở giữa chữ) có nghĩa là " củ ấu ", loại củ có hai đầu nhọn. Từ ngu