Skip to main content

Hán Tuyên Đế – Wikipedia tiếng Việt

Hán Tuyên Đế (chữ Hán: 漢宣帝; 91 TCN - 49 TCN), tên thật là Lưu Tuân [1] (劉詢), là vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 74 TCN đến năm 49 TCN, tổng cộng 25 năm. Cuộc đời của ông trước khi lên ngôi đầy ly kỳ và thăng trầm.

Dưới thời gian Hán Tuyên Đế, Triều đại nhà Hán duy trì được sự thịnh trị và mở rộng kinh tế cũng như quân sự. Vì xuất thân từ nhỏ chịu cảnh nghèo nàn, Tuyên Đế biết rõ sự cơ cực của dân chúng, ông cho giảm thuế, giảm nhẹ hình phạt. Với bộ máy quan lại, ông mở mang rộng hơn, chọn những người có tài sung vào làm quan, chính quyền ngày càng vững mạnh.

Ông còn chủ trương thâu tóm quyền lực vào tay mình, bằng việc giảm đi các thế lực ngoại thích công thần, nổi tiếng nhất là việc triệt hạ toàn bộ người nhà của Hoắc Quang (霍光), đại danh thần phò tá cho Hán Chiêu Đế và những năm đầu thời của ông. Dù việc này một phần do họ Hoắc có tham vọng phản loạn khi giết Hứa Hoàng hậu để lập Hoắc Thành Quân làm Hậu và âm mưu tạo phản, nhưng hành động xử tử toàn bộ thân thuộc họ Hoắc của Tuyên Đế vẫn bị sử gia cho rằng ông đã quá tàn nhẫn và thật sự đã bất công với công lao của Hoắc Quang.

Năm 49 TCN, Tuyên Đế băng hà, con trai là Lưu Thích kế vị, tức Hán Nguyên Đế.





Hán Tuyên Đế vốn tên là Lưu Bệnh Dĩ (劉病已), sau mới đổi thành Lưu Tuân. Ông là cháu 4 đời của Hán Vũ Đế, ông nội là Lệ thái tử Lưu Cứ (劉據) của Hán Vũ Đế. Cha ông là Lưu Tiến (刘进), con trai của Lệ Thái tử, mẹ ông là Vương Ông Tu (王翁须).

Khi Hán Vũ Đế về già, ông tin dùng hoạn quan Giang Sung (江充). Sung vu hãm mẹ con Vệ hoàng hậu và thái tử Lưu Cứ khiến Lưu Cứ sợ hãi nổi dậy làm loạn không thành và bị giết, đó gọi là án Vu cổ. Cha mẹ Tuyên Đế đều bị giết trong vụ án này. Bên cạnh đó, nhiều người khác gồm 2 chú của Tuyên Đế phải tự sát, Vệ hoàng hậu cũng thắt cổ chết.

Không rõ lý do vì sao mà Bệnh Dĩ lúc đó được tha, và ông bị bắt vào một nhà lao giam cầm cùng với bà nội ông, Thái tử phi Sử thị, khi đó ông chỉ là một đứa trẻ sơ sinh mới được vài tháng tuổi. Quan coi ngục tên là Bính Cát (丙吉) vốn là thuộc hạ cũ của Thái tử, biết rõ Lệ Thái tử vô tội, đã thương đứa bé và chọn 2 nữ tù nhân tên Hồ Tổ (胡組) và Quách Trưng Khanh (郭徵卿) làm vú nuôi. Bính Cát thường hay ghé nhà lao để coi sóc đứa trẻ. Về sau, có tin đồn xuất hiện điềm thiên tử trong nhà ngục, Hán Vũ Đế đã ra lệnh giết sạch phạm nhân mặc cho đã tuyên án hay không, khi sứ giả đến nhà ngục nơi Bính Cát quản lý, Cát đã cố ngăn lại, và vừa lúc đó Hán Vũ Đế nhận ra lỗi lầm của mình, đã thu hồi mệnh lệnh.

Thấy vậy, Bính Cát đem đứa trẻ và Hồ Thị đi đến Trường An, tìm kiếm nơi nào khác nhận nuôi. Lúc đó Cát đã tìm được mẹ của Thái tử phi là Trinh Quân (貞君) cùng người họ hàng Sử Cung (史恭), Bính Cát đã giao cho Trinh Quân nuôi Bệnh Dĩ hộ. Vài năm sau, Hán Chiêu Đế nghe nói hậu nhân dòng dõi Lệ Thái tử còn sống, bèn cho tìm kiếm và ban chiếu sắc phong Lưu Bệnh Dĩ làm Hoàng trưởng tôn và ra lệnh cho hoạn quan Trương Hạ (張賀) nuôi dưỡng Bệnh Dĩ và cho ăn học tử tế.

Năm 76 TCN, Trương Hạ triệu một hoạn quan dưới quyền là Hứa Quảng Hán (許廣漢) đến gặp mặt và ngỏ ý muốn cưới con gái ông, Hứa Bình Quân cho Lưu Bệnh Dĩ. Mẹ của Hứa Bình Quân rất tức giận và kiên quyết phản đối, nhưng do Quảng Hán không dám trái ý Trương Hạ, bèn ưng thuận. Tiền tổ chức lễ cưới và sính vật đều do Trương Hạ lo liệu. Sau khi cưới, Bệnh Dĩ phụ thuộc hoàn toàn tài chính gia đình vợ, ông được học Tứ thư, Ngũ kinh và tỏ ra là một người có nhạy bén về chính trị. Thỉnh thoảng ông được Hán Chiêu Đế triệu vào chầu. Sau đó ông được sắc phong làm Dương Võ hầu.

Năm 74 TCN, Hán Chiêu Đế băng hà, không có con trai nối dõi nên đại thần phụ chính Hoắc Quang lập Xương Ấp vương Lưu Hạ (劉賀) lên ngôi. Nhưng do Lưu Hạ chơi bời sa đọa, làm nhiều việc vô đạo nên chỉ làm vua 27 ngày thì bị Hoắc Quang cùng quần thần phế truất thông qua việc xin ý chỉ của Thượng Quan thái hậu (Hoàng hậu của Hán Chiêu Đế và là cháu ngoại của Hoắc Quang). Lúc đó, trong triều, có nhiều đại thần cho ý kiến là nên lập người con trai duy nhất còn sống trong số 6 hoàng tử của Hán Vũ Đế, anh trai thứ năm của Hán Chiêu Đế là Quảng Lăng vương Lưu Tư lên kế vị, nhưng do Hoắc Quang không thích vị thân vương này, nên đã quyết định lập Dương Võ hầu Lưu Bệnh Dĩ, khi đó 17 tuổi lên ngôi, trở thành Hán Tuyên Đế trong lịch sử. Ông đổi tên thành Lưu Tuân.

Có 3 lý do chính cho việc Hoắc Quang lập Lưu Tuân lên ngôi:

Thứ nhất là do Lưu Tuân là dòng dõi đích tôn trực hệ của Hán Vũ Đế.

Thứ hai là do Lưu Tuân còn trẻ và chưa có kinh nghiệm chính trị nên Hoắc Quang có thể dễ dàng kiểm soát hoàng đế, thao túng triều chính.

Thứ ba là do Lưu Tuân cũng có quan hệ họ hàng xa với Hoắc Quang (Hoắc Quang và anh trai Hoắc Khứ Bệnh đều là cháu của Vệ hoàng hậu nên cũng chính là họ hàng thân thích với thái tử Lưu Cứ). Đặc biệt, Lưu Tuân còn mang danh phận con rể của Hoắc Quang (lấy Hoắc Thành Quân) nên Hoắc Quang muốn con gái mình sẽ trở thành hoàng hậu tiếp theo của nhà Hán.



Đối nội[sửa | sửa mã nguồn]


Lưu Tuân được sử sách mô tả là người tinh thông Đạo Lão và ít chuộng Nho giáo[2].

Khi làm vua, Tuyên Đế chú trọng việc dùng người tài, áp dụng những chính sách khoan thứ sức dân, giảm nhẹ các khoản thuế khóa và mở mang giáo dục. Nhờ đó, nhà Hán tiếp tục thời kỳ thịnh trị sau Vũ Đế và Chiêu Đế.

Để củng cố bộ máy hành chính, Tuyên Đế thực hiện tuyển lựa quan lại một cách chặt chẽ, nhất là quận thú các quận và quan lại bậc cao. Mặt khác, ông tăng bổng lộc của các quan bậc thấp lên gấp rưỡi[3].

Tuy làm được nhiều việc có lợi cho quốc gia nhưng Tuyên Đế cũng phạm phải sai lầm. Ông nghe lời gièm pha và giết hại các hiền thần như Hán Diên Thọ, Triệu Nghiễm Thần, Dương Uẩn, Cái Quảng Tiễn[4].


Đối ngoại[sửa | sửa mã nguồn]


Để yên ổn biên giới phía bắc, Tuyên Đế giữ chính sách thân thiện với Hung Nô. Lúc đó Hung Nô xảy ra nội loạn: Thiền vu Hô Hàn Tà bị anh là Chất Chi đánh bại, muốn giao hảo với nhà Hán, bèn viết thư xin gặp Tuyên Đế. Tuyên Đế nhận lời. Khi Hô Hàn Tà đến, ông thân hành ra đón tiếp ngoài thành Trường An và mở yến tiệc chiêu đãi. Sau đó Hô Hàn Tà ở lại Trường An hơn 1 tháng.

Khi Hô Hàn Tà trở về, Hán Tuyên Đế sai 1 vạn quân đi hộ tống về đến tận Mạc Nam và biếu hơn 30 vạn đấu lương.

Nhờ chính sách hòa hoãn của Tuyên Đế, không chỉ Hung Nô mà nhiều quốc gia khác ở Tây Vực cũng thân thiện với nhà Hán[5].



Đại thần Hoắc Quang được Hán Vũ Đế ủy nhiệm làm phụ chính qua 3 đời vua, có nhiều công lao và tỏ ra lộng quyền. Ngoài việc đưa cháu gái vào làm vợ Hán Chiêu Đế trước đây, đối với Hán Tuyên Đế, gia đình họ Hoắc cũng tìm cách gây ảnh hưởng để khống chế. Vợ Hoắc Quang mua chuộc ngự y đầu độc giết chết vợ Tuyên Đế là hoàng hậu Hứa Bình Quân và đưa con gái là Hoắc Thành Quân vào cung thay chỗ. Từ đó uy thế họ Hoắc trong triều càng lớn.

Sau khi Hoắc Quang qua đời, con cháu ông được vào triều làm quan, thế lực ngày một lớn. Tuyên Đế cũng có ý định tiêu diệt để trừ hậu họa và trả thù cho Hứa Hoàng hậu, đã ra lệnh điều tra về cái chết của Hứa Hoàng hậu trước đây và triệt tiêu quyền lực của họ Hoắc, phong Hoắc Vũ làm Đại Tư mã nhưng không có thực quyền, Triệu Bình (con rể Hoắc Quang) cũng bị đoạt binh quyền. Ngoài ra, Tuyên Đế còn thay hết toàn bộ cấm quân trong cung Vị Ương và Trường Nhạc để đề phòng.

Gia tộc họ Hoắc lo sợ tìm cách trả thù, lên kế hoạch giết Lưu Thích, Thừa tướng Ngụy Tương và Xương Thành quân Hứa Quảng Hán (cha Hứa hoàng hậu) và phế bỏ Tuyên Đế để đưa Hoắc Sơn làm thiên tử.

Tháng 7, năm 66 TCN, việc này bị lộ, Tuyên Đế ra lệnh bắt chém ngay Hoắc Ngẫu và bắt Hoắc Sơn, Hoắc Vân tự sát. Toàn bộ gia tộc họ Hoắc bị giết hại, chỉ còn người con rể của Hoắc Quang là Kim Thưởng do biết việc tố cáo nên được xá miễn. Hoàng hậu Hoắc Thành Quân bị phế, đày vào cung Chiêu Thái, đến năm 56 TCN thì tự sát. Tổng cộng, trong vụ án họ Hoắc, có tới hơn 1000 người bị liên lụy và bị sát hại. Còn thi thể Hoắc Quang bị chuyển sang Chu Liên.

Về sau dưới thời Hán Bình Đế, năm 2, để tưởng nhớ Hoắc Quang, Bình Đế đã phong cho người cháu chắt của em ông là Hoắc Dương làm Bác Lục hầu để lo việc tế tự cho ông.



Năm 49 TCN, Hán Tuyên Đế băng hà, hưởng dương 42 tuổi. Ông ở ngôi 25 năm, dùng các niên hiệu:


  • Nguyên Bình (74 TCN) [6]

  • Bản Thủy (本始, 73-70 TCN)

  • Địa Tiết (地节, 69-66 TCN)

  • Nguyên Khang (元康, 65-61 TCN)

  • Thần Tước (神爵, 61-58 TCN) [7]

  • Ngũ Phượng (五凤, 57-54 TCN)

  • Cam Lộ (甘露, 53-50 TCN)

  • Hoàng Long (黄龙, 49 TCN)

Ông được tôn miếu hiệu là Trung Tông (中宗), thụy hiệu là Hiếu Tuyên hoàng đế (孝宣皇帝), thường gọi là Hán Tuyên Đế.

Hán Tuyên Đế mất, Thái tử Lưu Thích năm đó 27 tuổi lên ngôi, tức là Hán Nguyên Đế.




  1. Cung Ai Hứa hoàng hậu (恭哀许皇后, 89 TCN - 71 TCN), tên gọi Hứa Bình Quân (许平君), người Xương Ấp, con gái của Hứa Quảng Hán (許廣漢). Sơ phong Tiệp dư (婕妤), sau phong Hoàng hậu. Bà bị nhà họ Hoắc ám hại, sau Hán Tuyên Đế vì trả thù cho bà mà xử tử cả họ. Sinh ra Hán Nguyên Đế Lưu Thích.

  2. Phế hoàng hậu Hoắc Thành Quân (霍成君, 87 TCN - 54 TCN), con gái đại danh thần Hoắc Quang. Bị phế năm 66 TCN do liên quan vụ án nhà họ Hoắc, Tuyên Đế ra chỉ giam vào lãnh cung, về sau bị buộc tự sát.

  3. Hiếu Tuyên Vương hoàng hậu (孝宣王皇后, ? - 16 TCN), con gái của Quan nội hầu Vương Phụng Quang (王奉光). Thời Nguyên Đế được tôn làm Cung Thành thái hậu (邛成太后).

  4. Trương tiệp dư (張婕妤).

  5. Vệ tiệp dư (衛婕妤).

  6. Công Tôn tiệp dư (公孫婕妤), sau tôn phong làm Đông Bình vương thái hậu (東平王太后).

  7. Nhung tiệp dư (戎婕妤), sau tôn phong làm Trung Sơn vương thái hậu (中山王太后).

  8. Hoa tiệp dư (華婕妤).

  9. Lương mỹ nhân (梁美人).
  1. Hán Nguyên Đế Lưu Thích (劉詢), mẹ Hứa hoàng hậu

  2. Hoài Dương Hiến vương Lưu Khâm (淮阳宪王劉欽; ? - 27 TCN), mẹ Trương tiệp dư.

  3. Sở Hiếu vương Lưu Hiêu (楚孝王劉囂; ? - 47 TCN), mẹ Vệ tiệp dư.

  4. Đông Bình Tư vương Lưu Vũ (东平思王劉宇; ? - 19 TCN), mẹ Công Tôn tiệp dư.

  5. Trung Sơn Ai vương Lưu Cánh (中山哀王劉竟; ? - 35 TCN), mẹ Nhung tiệp dư.
  1. Quán Đào công chúa Lưu Thi (館陶公主劉施), mẹ là Hoa tiệp dư, sau Hoắc hoàng hậu nhận nuôi. Hạ giá Vu Vĩnh (于永), là con trai của Thừa tướng Vu Định Quốc (于定国).

  2. Kính Vũ công chúa (敬武公主), mẹ không rõ. hạ giá Trương lâm (張臨), tằng tôn của Trương An Thế (張安世); sinh hạ Trương Phóng (张放). Sau Trương Lâm chết, tái giá Triệu Khâm (赵钦), là cháu của Triệu Sung Quốc (赵充国). Triệu Lâm chết, lại tái giá Tiết Tuyên (薛宣). Về sau Tiết Tuyên bị tội, miễn tước hầu và quay về Cố quận, công chúa được lưu lại kinh sư. Vương Mãng chuyên quyền, công chúa dị nghị Mãng khiến mãng hạ sát công chúa.


  • Lê Đông Phương, Vương Tử Kim (2007), Kể chuyện Tần Hán, Nhà xuất bản Đà Nẵng

  • Đặng Huy Phúc (2001), Các hoàng đế Trung Hoa, Nhà xuất bản Hà Nội

  • Nguyễn Khắc Thuần (2003), Các đời đế vương Trung Hoa, Nhà xuất bản Giáo dục


  1. ^ Có người phiên âm là Lưu Tuấn

  2. ^ Đặng Huy Phúc, sách đã dẫn, tr 69

  3. ^ Đặng Huy Phúc, sách đã dẫn, tr 70

  4. ^ Đặng Huy Phúc, sách đã dẫn, tr 72

  5. ^ Đặng Huy Phúc, sách đã dẫn, tr 71

  6. ^ Niên hiệu Nguyên Bình thời Hán Chiêu Đế vẫn tiếp tục dùng thêm 6 tháng (từ tháng 7 đến tháng 12 năm 74 TCN) sau khi Hán Chiêu Đế qua đời

  7. ^ Niên hiệu này bắt đầu được sử dụng từ tháng 3 năm 61 TCN. Hai tháng đầu năm 61 niên hiệu Nguyên Khang vẫn được dùng


Comments

Popular posts from this blog

Bạo động tại Ürümqi, tháng 7 năm 2009 – Wikipedia tiếng Việt

Bạo loạn Tân Cương (tiếng Anh: Xinjiang riots ), hay Vụ bạo động tại Ürümqi (tiếng Anh: July 2009 Ürümqi riots ), thủ phủ của khu tự trị dân tộc Duy Ngô Nhĩ Tân Cương ở miền Tây Trung Quốc xảy ra vào đêm ngày 5 tháng 7 năm 2009. Vụ bạo động bao gồm 1.000 người [2] [3] [4] tham gia và sau đó đã tăng lên tới khoảng 3.000 người [5] . Ít nhất đã có 184 người chết, trong đó có 137 là người Hán và 46 là người Duy Ngô Nhĩ và 1 người Hồi. [1] Đây được coi là vụ bạo lực sắc tộc tồi tệ nhất Trung Quốc, diễn ra sau một năm khi xảy ra vụ bạo động Tây Tạng 2008. Bạo lực là một phần của cuộc xung đột sắc tộc đang diễn ra giữa người Hán và người Uyghur (phiên âm Hán: Duy Ngô Nhĩ) - một dân tộc gốc Turk chủ yếu theo đạo Hồi và là một trong những nhóm sắc tộc được công nhận chính thức tại Trung Quốc. Nhiều người cho rằng vụ bạo động bùng phát bởi sự bất mãn với cách giải quyết của chính quyền trung ương Trung Quốc về cái chết của hai công nhân người Uyghur tại tỉnh Quảng Đông [6] [7] . Tân Hoa xã n

Bài tấn – Wikipedia tiếng Việt

Tấn là cách chơi bài của Nga, du nhập vào Việt Nam, được chơi bởi 2-4 người. Đây là một trong những cách chơi thông dụng của bộ bài Tây. Trò này bắt nguồn từ nước Nga, với tên Durak (thằng ngốc - dùng để chỉ người còn bài cuối cùng). Các lá bài [ sửa | sửa mã nguồn ] 5 quân lớn trong bộ tú lơ khơ. Trò chơi sử dụng bộ bài tiêu chuẩn (gồm 52 lá bài). Xếp hạng "độ mạnh" của các quân bài theo thứ tự giảm dần như sau: A (đọc là át, ách hay xì)> K (đọc là ca hay già)> Q (đọc là quy hay đầm)> J (đọc là gi hay bồi)> 10> 9> 8> 7> 6> 5> 4> 3> 2. Lá bài A là lá mạnh nhất và lá 2 là lá bài yếu nhất. Chia bài, chọn nước bài chủ [ sửa | sửa mã nguồn ] Chơi từ 2-4 người. Người chơi quyết định ai là người chia. Mỗi người 8 quân bài, chọn chiều chia bài là chia ngược chiều (hoặc theo chiều) kim đồng hồ (chiều chia bài cũng là chiều đánh), sau khi chia xong bốc thêm một lá để quyết định chất chủ (hoặc chất trưởng). Lá bốc được mang chất nào (Cơ, Rô, C

Mitsubishi – Wikipedia tiếng Việt

Mitsubishi Group Ngành nghề Tập đoàn Thành lập 1870 Người sáng lập Iwasaki Yataro Trụ sở chính Tokyo, Nhật Bản Khu vực hoạt động Toàn cầu Nhân viên chủ chốt CEO, Ken Kobayashi Sản phẩm Khai khoáng, công nghiệp đóng tàu, viễn thông, tài chính, bảo hiểm, điện tử, ô tô, xây dựng, công nghiệp nặng, dầu khí, địa ốc, thực phẩm, hóa chất, luyện kim, hàng không... Doanh thu US$ 248.6 tỉ (2010) Lợi nhuận ròng US$ 7.2 tỉ (2010) Số nhân viên 350,000 (2010) Website Mitsubishi .com Logo của Mitsubishi là ba củ ấu chụm vào nhau Mitsubishi là một tập đoàn công nghiệp lớn của Nhật Bản. Công ty Mitsubishi đầu tiên là một công ty chuyển hàng thành lập bởi Yataro Iwasaki (1834–1885) năm 1870. Năm 1873, tên công ty được đổi thành Mitsubishi Shokai (三菱商会: Tam Lăng thương hội). Tên Mitsubishi (三菱) có hai phần: " mitsu " tức tam có nghĩa là " ba " và " hishi " tức lăng (âm " bishi " khi ở giữa chữ) có nghĩa là " củ ấu ", loại củ có hai đầu nhọn. Từ ngu