Skip to main content

Gu Hye-seon – Wikipedia tiếng Việt

Đây là một tên người Triều Tiên, họ là Ku.

Goo Hye Sun (sinh ngày 09 tháng 11 năm 1984), là một nữ diễn viên, ca sĩ của Hàn Quốc. Cô được biết đến với vai diễn thành công trong bộ phim truyền hình Boys over flowers. Ngoài khả năng diễn xuất và ca hát, cô cũng tham gia vào nhiều vai trò khác nhau như: đạo diễn, họa sĩ, người dẫn chương trình, nhà văn, nhà soạn nhạc,...

Gia đình: vào ngày 21-5-2016 cô đã trở thành vợ của diễn viên - người mẫu An Jae-hyeon





Gu Hye-seon sinh ra tại Incheon, Hàn Quốc. Cô bắt đầu đến với làng giải trí bằng công việc ca hát. Đầu tiên cô đến SM Entertainment nhưng thấy không phù hợp với mình. Và đã tìm tới YG Entertainment nhưng không qua bài kiểm tra do chứng sợ sân khấu. Chủ tịch YG là Yang Huyn Suk đã khuyên cô đến với diễn xuất.

Từ đó cô bắt đầu tham gia diễn xuất khi góp mặt trong loạt phim truyền hình "Nonstop 5" và "Drama city". Nhưng bước ngoặt lớn nhất trong sự nghiệp diễn xuất của cô đó là khi được đóng vai chính trong bộ phim "Pure 19". Nhờ bộ phim cô đã đoạt giải "Nữ diễn mới xuất sắc" trong Lễ trao giải KBS Drama Award 2006.



Vào năm 2007 cô đã tham bộ phim cổ trang King and I cùng nam ca sĩ Eric Mun. Cô vào vai hoàng hậu của Joseon, 1 vai diễn khó. Cô được nhiều người đánh giá cao qua vai diễn này. 1 lần nữa cô đã thành công khi đã rinh về tượng vàng thứ 2 trong SBS Drama Award 2007 cho đề cử "Ngôi sao mới".

Năm 2008 Gu Hye-seon 1 lần nữa vào vai diễn cổ trang trong "Strongest ChilWoo". Tuy bộ phim không thành công như mong đợi nhưng mọi người đã công nhận diễn xuất của cô.

Năm 2009 Gu Hye-seon nhận vai diễn Geum Jan Di trong bộ phim thần tượng Boys Over Flowers. Khi chưa công khai tạo hình chỉ nhìn ảnh của cô công chúng đã chú ý đến cô. Nhưng khi bộ phim được phát sóng cư dân mạng đã chỉ trích mạnh mẽ cô vì cô không hợp với hình tượng nữ chính. Nhưng cô đã bỏ ngoài tai và tập trung vào diễn xuất. Không những thế trong lúc quay phim đã bị 1 chấn thương khá mạnh đó là cô bị tai nạn giao thông và bị rách miệng phải đưa vào cấp cứu dù bị vậy cô vẫn nở nụ cười ở trên môi. Cường độ làm việc của Geum Jan Di ngày càng nhiều đến nỗi 1 ngày cô chỉ được ngủ 1 tiếng. Sau khi mối tình tay ba của JD, JH, JP ngày càng hấp dấn nhận vật GJD của Gu Hye-seon ngày càng được yêu mến.



Sau khi kết thúc BOF, Gu Hye-seon đã cho ra mắt cuốn tiểu thuyết Tango. Cuốn tiêu thuyết mà cô đã tự tay viết sau chuỗi ngày nghỉ khi quay xong BOF. Cuốn tiểu thuyết bán chạy nhiều người cho rằng Gu Hye-seon đã nhờ BOF để thêm danh tiếng.[4][5] Nhưng sau đó cô cho ra mắt triển lãm tranh do cô tự vẽ và sau đó rất nhiều người khâm phục tài năng của cô.

Nhưng mơ ước lớn nhất của cô là trở thành 1 đạo diễn. Vào năm 2008 cô đã cho ra mắt 2 bộ phim ngắn là "The Madona và The Cheerful Caretaker". Tiếp theo chuỗi thành công năm 2009 cô đã cho ra mắt 1 buổi concert piano phát hành album "Bearth" là những bài cố định cho bộ phim dài đầu tay "Magic".

Bộ phim đầu tay dài "Magic" đã được GHS cho khởi quay vào 15.01.2010 với nữ diễn viên chính là Suh Huyn Jin là bạn thân của cô và nam diễn viên chính được công bố vào ngày 13.01.2010 là Kim Jung Wook. MAGIC là một câu chuyện âm nhạc về tình yêu và tình bạn của những nhạc sĩ trẻ. Bộ phim được trình chiếu vào cuối năm 2010. Chúng ta cùng chúc cho bộ phim của cô gặt hái được nhiều thành công và gặp lại trong những dự án điện ảnh tiếp theo.

Năm 2016, công khai hẹn hò với nam diễn viên Ahn Jae Hyun. Sau đó kết hôn ngày 21/5/2016.



Phim truyền hình[sửa | sửa mã nguồn]


Phim Điện ảnh[sửa | sửa mã nguồn]


  • August Rush (cameo, 2007)

  • 2007 SBS Acting Awards (2007)

  • SBS Inkikayo (SBS 인기가요) (2006-2007)

  • Soul Star- Will Forget (소울스타 - 잊을래)...2006

  • Sung Si Kyeong- We Quite Match Well (성시경 - 우린 제법 잘 어울려요)

  • Im Taebin- The Reason I Close My Eyes (태빈 - 내가 눈을 감는 이유)

  • Kim Ji Eun- Yesterday is Different from Today (지은 - 어제와 다른 오늘)

  • 2009 KBS Drama Awards: Novella Drama Excellence Award - Actress (Boys Over Flowers)

  • 2009 KBS Drama Awards: Best Couple Award (with Lee Min Ho in (Boys Over Flowers)

  • 2009 KBS Drama Awards: Netizen Popularity Award - Actress (Boys Over Flowers)

  • 2009 6th Yahoo! Asia Buzz Awards (Đài Loan): Best Asian Female Star ư

  • 2009 Andre Kim Best Star Awards: Best Female Star

  • 14th Asian Television Awards(2009): Nominated for Best Drama Performance by an Actress (Boys Over Flowers)

  • 2009 Pusan Asian Short Film Festival: Audience Award for Cheerful Caretaker

  • 2007 SBS Drama Awards: New Star Award (The King and I)

  • 2006 KBS Drama Awards: New Actress Award (Pure 19)



Comments

Popular posts from this blog

Bạo động tại Ürümqi, tháng 7 năm 2009 – Wikipedia tiếng Việt

Bạo loạn Tân Cương (tiếng Anh: Xinjiang riots ), hay Vụ bạo động tại Ürümqi (tiếng Anh: July 2009 Ürümqi riots ), thủ phủ của khu tự trị dân tộc Duy Ngô Nhĩ Tân Cương ở miền Tây Trung Quốc xảy ra vào đêm ngày 5 tháng 7 năm 2009. Vụ bạo động bao gồm 1.000 người [2] [3] [4] tham gia và sau đó đã tăng lên tới khoảng 3.000 người [5] . Ít nhất đã có 184 người chết, trong đó có 137 là người Hán và 46 là người Duy Ngô Nhĩ và 1 người Hồi. [1] Đây được coi là vụ bạo lực sắc tộc tồi tệ nhất Trung Quốc, diễn ra sau một năm khi xảy ra vụ bạo động Tây Tạng 2008. Bạo lực là một phần của cuộc xung đột sắc tộc đang diễn ra giữa người Hán và người Uyghur (phiên âm Hán: Duy Ngô Nhĩ) - một dân tộc gốc Turk chủ yếu theo đạo Hồi và là một trong những nhóm sắc tộc được công nhận chính thức tại Trung Quốc. Nhiều người cho rằng vụ bạo động bùng phát bởi sự bất mãn với cách giải quyết của chính quyền trung ương Trung Quốc về cái chết của hai công nhân người Uyghur tại tỉnh Quảng Đông [6] [7] . Tân Hoa xã n

Bài tấn – Wikipedia tiếng Việt

Tấn là cách chơi bài của Nga, du nhập vào Việt Nam, được chơi bởi 2-4 người. Đây là một trong những cách chơi thông dụng của bộ bài Tây. Trò này bắt nguồn từ nước Nga, với tên Durak (thằng ngốc - dùng để chỉ người còn bài cuối cùng). Các lá bài [ sửa | sửa mã nguồn ] 5 quân lớn trong bộ tú lơ khơ. Trò chơi sử dụng bộ bài tiêu chuẩn (gồm 52 lá bài). Xếp hạng "độ mạnh" của các quân bài theo thứ tự giảm dần như sau: A (đọc là át, ách hay xì)> K (đọc là ca hay già)> Q (đọc là quy hay đầm)> J (đọc là gi hay bồi)> 10> 9> 8> 7> 6> 5> 4> 3> 2. Lá bài A là lá mạnh nhất và lá 2 là lá bài yếu nhất. Chia bài, chọn nước bài chủ [ sửa | sửa mã nguồn ] Chơi từ 2-4 người. Người chơi quyết định ai là người chia. Mỗi người 8 quân bài, chọn chiều chia bài là chia ngược chiều (hoặc theo chiều) kim đồng hồ (chiều chia bài cũng là chiều đánh), sau khi chia xong bốc thêm một lá để quyết định chất chủ (hoặc chất trưởng). Lá bốc được mang chất nào (Cơ, Rô, C

Mitsubishi – Wikipedia tiếng Việt

Mitsubishi Group Ngành nghề Tập đoàn Thành lập 1870 Người sáng lập Iwasaki Yataro Trụ sở chính Tokyo, Nhật Bản Khu vực hoạt động Toàn cầu Nhân viên chủ chốt CEO, Ken Kobayashi Sản phẩm Khai khoáng, công nghiệp đóng tàu, viễn thông, tài chính, bảo hiểm, điện tử, ô tô, xây dựng, công nghiệp nặng, dầu khí, địa ốc, thực phẩm, hóa chất, luyện kim, hàng không... Doanh thu US$ 248.6 tỉ (2010) Lợi nhuận ròng US$ 7.2 tỉ (2010) Số nhân viên 350,000 (2010) Website Mitsubishi .com Logo của Mitsubishi là ba củ ấu chụm vào nhau Mitsubishi là một tập đoàn công nghiệp lớn của Nhật Bản. Công ty Mitsubishi đầu tiên là một công ty chuyển hàng thành lập bởi Yataro Iwasaki (1834–1885) năm 1870. Năm 1873, tên công ty được đổi thành Mitsubishi Shokai (三菱商会: Tam Lăng thương hội). Tên Mitsubishi (三菱) có hai phần: " mitsu " tức tam có nghĩa là " ba " và " hishi " tức lăng (âm " bishi " khi ở giữa chữ) có nghĩa là " củ ấu ", loại củ có hai đầu nhọn. Từ ngu