Skip to main content

Xì dách – Wikipedia tiếng Việt


Bài xì dách (hay xì lác) là một kiểu chơi đánh bài với một bộ bài tây. Kiểu chơi bài xì dách này là của người châu Á, khác với kiểu chơi tại các sòng bài quốc tế (Blackjack).





Bài xì dách được chơi từ hai người trở lên, nhưng thông thường và tốt nhất là không quá năm người. Trong đó, có một người đảm nhận vài trò "nhà cái". Ngoại trừ nhà cái, người chơi ("nhà con") phải đặt cược trước số tiền (tài sản) bao nhiêu tùy thích trước mỗi ván chơi (đặt công khai trên sòng bài). Nếu thắng, họ nhận được tiền (tài sản) có giá trị tương đương như đã đặt cược, còn thua thì họ mất số tiền, tài sản đã cược cho nhà cái. Nhà cái cũng phải công khai "khả năng chi trả" của mình có cho người chơi biết, để tránh trường hợp "quỵt" tiền. Tất cả nhà con đều chống lại nhà cái, vì họ có quyền lợi như nhau.



Trong mỗi ván, mục tiêu của người chơi xì dách là cố gắng đạt được tổng số điểm từ các lá bài trên tay càng gần hoặc bằng 21 điểm càng tốt, nhưng không được vượt quá 21.



Chia bài[sửa | sửa mã nguồn]


Với một bộ bài tây 52 lá, nhà cái sẽ chia lần lượt cho mình và cho nhà con, mỗi người 2 lá. Các lá bài còn dư thì nhà cái cầm nhưng không được xem. Thường thì nhà cái chia bài từ dưới lên trên (không phải từ trên xuống dưới như bài tiến lên).


Tính điểm[sửa | sửa mã nguồn]


Chơi xì lát tại các sòng bài phương Tây

Giai đoạn 1: Tính điểm 2 lá

Sau khi chia, tất cả cùng xem bài, tùy vào điểm số của bài mà mỗi người lần lượt lựa chọn bốc thêm bài hay không (nhà cái bốc sau cùng). Cách tính điểm như sau (không quan tâm màu sắc lá bài):


  • Các lá bài: 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10 thì số điểm tương ứng con số

  • Các là bài: J, Q, K thì mỗi lá được 10 điểm

  • Lá bài A: có thể tính theo: 1 lá A kẻ 11, 2 lá A trở lên kẻ 1.

Điểm tổng là điểm của tất cả các con bài trên tay cộng lại.

Với hai là bài được chia đầu tiên, nếu người nào có những trường hợp sau đây thì trình diện ngay cho nhà cái để hưởng lợi:


  • Xì bàng: 2 lá AA.

  • Xì dách: 1 lá A và thêm một trong các lá 10, J, Q, K.

Nếu nhà cái có trường hợp như thế (nghĩa là có Xì bàng hoặc Xì dách), nhà cái thắng hết nhà con (ngoại trừ nhà con nào có bài bằng hoặc cao hơn nhà cái). Bài sẽ được thâu lại để chuyển qua ván mới.

Nếu nhà cái không có Xì bàn hoặc Xì dách, nhà cái phải chung tiền cho những người có Xì bàn hoặc Xì lát. Sau đó nhà cái và những người chơi còn lại (những người không có Xì bàn và Xì dách) đi tiếp qua giai đoạn 2.

Giai đoạn 2: Bốc thêm bài

Sau khi tính điểm hai lá, người chơi có quyền bốc thêm bài (bọt bài) từ những lá bài còn dư hoặc thôi (dằng), sao cho số điểm nằm trong khoảng 16 (có nơi là 14) đến 21. Việc bốc thêm bài được thực hiện theo vòng tròn, hết người này đến người khác. Trước hoặc trong giai đoạn bốc bài, bất kỳ lúc nào, nhà cái cũng có quyền kiểm bài nhà con nếu anh ta đã được 16 điểm trở lên (đủ tuổi), nhưng việc này được cho là không có lợi cho nhà cái.

Mọi người chơi phải có số điểm ít nhất là 16 trong tay trước khi bị nhà cái kiểm bài (đủ tuổi), nếu không, họ bị xử thua ngay ván đó. Nhà cái có quyền kiểm bài bất kỳ nhà con nào, nếu nhà cái hơn điểm nhà con, anh ta ăn phần cược nhà con, ngược lại, anh ta trả tiền bằng tiền nhà con đã cược, nếu hai bên bằng nhau thì huề (chạy làng).

Các trường hợp đặc biệt của giai đoạn 2:


  • Ngũ Linh: với năm lá bài trên tay mà tổng điểm nhỏ hơn hoặc bằng 21, người chơi thắng tuyệt đối. Trường hợp có hai hay nhiều người Ngũ Linh ai ít điểm hơn thì thắng. Người chơi phải trình khi bọt đủ 5 lá.

  • Quá 21 điểm (Quắc) thì thắng thấp hơn 16 điểm (Dằn non)

  • Đền bài: Người nào biết bài của mình đã quá 21 điểm mà vẫn bốc thêm bài, nếu bị phát hiện thì bị đền bài. Người đó bị xử thua tất cả mọi người khác.

Chú ý: Có những hiểu lầm về luật chơi dẫn đến thắc mắc là giữa Ngũ Linh và Xì bàn, Xì dách thì cách so sánh ra sao. Xì bàn và Xì dách thuộc về giai đoạn 1, Ngũ Linh thuộc về giai đoạn 2. Giai đoạn 1 kết thúc rồi mới chuyển qua giai đoan 2, nên không bao giờ có việc so sánh Xì bàn, Xì dách với Ngũ Linh được.










Comments

Popular posts from this blog

Bạo động tại Ürümqi, tháng 7 năm 2009 – Wikipedia tiếng Việt

Bạo loạn Tân Cương (tiếng Anh: Xinjiang riots ), hay Vụ bạo động tại Ürümqi (tiếng Anh: July 2009 Ürümqi riots ), thủ phủ của khu tự trị dân tộc Duy Ngô Nhĩ Tân Cương ở miền Tây Trung Quốc xảy ra vào đêm ngày 5 tháng 7 năm 2009. Vụ bạo động bao gồm 1.000 người [2] [3] [4] tham gia và sau đó đã tăng lên tới khoảng 3.000 người [5] . Ít nhất đã có 184 người chết, trong đó có 137 là người Hán và 46 là người Duy Ngô Nhĩ và 1 người Hồi. [1] Đây được coi là vụ bạo lực sắc tộc tồi tệ nhất Trung Quốc, diễn ra sau một năm khi xảy ra vụ bạo động Tây Tạng 2008. Bạo lực là một phần của cuộc xung đột sắc tộc đang diễn ra giữa người Hán và người Uyghur (phiên âm Hán: Duy Ngô Nhĩ) - một dân tộc gốc Turk chủ yếu theo đạo Hồi và là một trong những nhóm sắc tộc được công nhận chính thức tại Trung Quốc. Nhiều người cho rằng vụ bạo động bùng phát bởi sự bất mãn với cách giải quyết của chính quyền trung ương Trung Quốc về cái chết của hai công nhân người Uyghur tại tỉnh Quảng Đông [6] [7] . Tân Hoa xã n

Bài tấn – Wikipedia tiếng Việt

Tấn là cách chơi bài của Nga, du nhập vào Việt Nam, được chơi bởi 2-4 người. Đây là một trong những cách chơi thông dụng của bộ bài Tây. Trò này bắt nguồn từ nước Nga, với tên Durak (thằng ngốc - dùng để chỉ người còn bài cuối cùng). Các lá bài [ sửa | sửa mã nguồn ] 5 quân lớn trong bộ tú lơ khơ. Trò chơi sử dụng bộ bài tiêu chuẩn (gồm 52 lá bài). Xếp hạng "độ mạnh" của các quân bài theo thứ tự giảm dần như sau: A (đọc là át, ách hay xì)> K (đọc là ca hay già)> Q (đọc là quy hay đầm)> J (đọc là gi hay bồi)> 10> 9> 8> 7> 6> 5> 4> 3> 2. Lá bài A là lá mạnh nhất và lá 2 là lá bài yếu nhất. Chia bài, chọn nước bài chủ [ sửa | sửa mã nguồn ] Chơi từ 2-4 người. Người chơi quyết định ai là người chia. Mỗi người 8 quân bài, chọn chiều chia bài là chia ngược chiều (hoặc theo chiều) kim đồng hồ (chiều chia bài cũng là chiều đánh), sau khi chia xong bốc thêm một lá để quyết định chất chủ (hoặc chất trưởng). Lá bốc được mang chất nào (Cơ, Rô, C

Mitsubishi – Wikipedia tiếng Việt

Mitsubishi Group Ngành nghề Tập đoàn Thành lập 1870 Người sáng lập Iwasaki Yataro Trụ sở chính Tokyo, Nhật Bản Khu vực hoạt động Toàn cầu Nhân viên chủ chốt CEO, Ken Kobayashi Sản phẩm Khai khoáng, công nghiệp đóng tàu, viễn thông, tài chính, bảo hiểm, điện tử, ô tô, xây dựng, công nghiệp nặng, dầu khí, địa ốc, thực phẩm, hóa chất, luyện kim, hàng không... Doanh thu US$ 248.6 tỉ (2010) Lợi nhuận ròng US$ 7.2 tỉ (2010) Số nhân viên 350,000 (2010) Website Mitsubishi .com Logo của Mitsubishi là ba củ ấu chụm vào nhau Mitsubishi là một tập đoàn công nghiệp lớn của Nhật Bản. Công ty Mitsubishi đầu tiên là một công ty chuyển hàng thành lập bởi Yataro Iwasaki (1834–1885) năm 1870. Năm 1873, tên công ty được đổi thành Mitsubishi Shokai (三菱商会: Tam Lăng thương hội). Tên Mitsubishi (三菱) có hai phần: " mitsu " tức tam có nghĩa là " ba " và " hishi " tức lăng (âm " bishi " khi ở giữa chữ) có nghĩa là " củ ấu ", loại củ có hai đầu nhọn. Từ ngu