Skip to main content

Igor Dobrovolski – Wikipedia tiếng Việt

Igor Ivanovich Dobrovolski (tiếng Nga: Игорь Иванович Добровольский, tiếng Ukraina: Ігор Іванович Добровольський, Ihor Ivanovych Dobrovolskyi; sinh ngày 27 tháng 8 năm 1967) là một cựu tuyển thủ Đội tuyển bóng đá quốc gia Liên Xô, Đội tuyển bóng đá quốc gia Nga, và hiện là huấn luyện viên đội tuyển bóng đá quốc gia Moldova.





Igor Dobrovolski sinh ngày 27 tháng 8 năm 1967 tại làng Markove, Rozdilnianskyi Raion, Odessa (Ukraina, lúc đó nằm trong Liên Xô). Ông là người Nga lai Moldova.

Lúc nhỏ, Dobrovolski tập bóng đá tại Trường thể thao thanh thiếu niên Tiraspol số 4 ở Transnistria, Moldova ngày nay.



Ở cấp câu lạc bộ, Dobrovolski từng chơi cho FC Nistru Chişinău, Dynamo Moskva, CD Castellón, Servette FC, Olympique de Marseille, Genoa C.F.C., Atlético de Madrid, Fortuna Düsseldorf và Tiligul Tiraspol. Trưởng thành từ Dinamo Moskva, sau những thành tích quốc tế từ năm 1988 đến 1990, Dobrovolski là một trong những cầu thủ Liên Xô đầu tiên được Nhà nước này đồng ý cho đi đá cho các câu lạc bộ nước ngoài. Đầu tiên ông đến Tây Ban Nha và lần lượt đá cho CD Castellón, Servette FC. Sau đó, ông sang Pháp đá cho Olympique de Marseille, rồi sang Ý đá cho Genoa C.F.C.. Sau một thời gian ngắn quay về Nga, ông lại sang đấu cho Atletico Madrid của Tây Ban Nha, Fortuna Düsseldorf của Đức.

Ở cấp quốc gia, Dobrovolski từng chơi trong đội hình U23 của Đội tuyển bóng đá quốc gia Liên Xô tại Thế vận hội mùa hè Seoul 1988 và cùng đội này đoạt huy chương vàng. Bản thân ông ghi 6 bàn thắng và đoạt giải Giày bạc. Sau đó, chơi trong đội hình U21 của Đội tuyển Liên Xô và giành cúp vô địch châu Âu năm 1990. Chơi trong đội hình chính thức của đội tuyển Liên Xô, ông đã tham gia Giải vô địch bóng đá thế giới năm 1990 và lọt vào vòng bảng của vòng chung kết tổ chức tại Ý. Ông đã khoác áo đội tuyển bóng đá quốc gia Liên Xô 25 lần và ghi 7 bàn thắng. 5 trong số các bàn thắng đó được ghi liên tiếp trong 5 trận đấu liên tục tại Seoul 1988. 1 bàn nữa ghi vào lưới đội Argentina tại ở Italia 1990.

Khi Liên Xô tan rã, đội tuyển bóng đá SNG thay thế đội tuyển quốc gia Liên Xô tại Euro 1992. Dobrovolski tiếp tục tham gia đội tuyển này và ghi bàn thắng duy nhất cho đội này (trước đội tuyển bóng đá quốc gia Đức) tại vòng chung kết của giải ở Thụy Điển.

Tiếp theo, Dobrovlski thi đấu trong màu áo của Đội tuyển bóng đá quốc gia Nga và đã tham gia thi đấu tại vòng chung kết của Euro 1996 tổ chức tại Anh. Ông đã tham gia 18 trận của đội tuyển Nga và ghi 2 bàn thắng.



Năm 39 tuổi, Dobrovoski chuyển sang làm huấn luyện viên tại Tiligul Tiraspol, sau đó làm huấn luyện viên đội tuyển bóng đá quốc gia Moldova cho đến năm 2008.











Comments

Popular posts from this blog

Bạo động tại Ürümqi, tháng 7 năm 2009 – Wikipedia tiếng Việt

Bạo loạn Tân Cương (tiếng Anh: Xinjiang riots ), hay Vụ bạo động tại Ürümqi (tiếng Anh: July 2009 Ürümqi riots ), thủ phủ của khu tự trị dân tộc Duy Ngô Nhĩ Tân Cương ở miền Tây Trung Quốc xảy ra vào đêm ngày 5 tháng 7 năm 2009. Vụ bạo động bao gồm 1.000 người [2] [3] [4] tham gia và sau đó đã tăng lên tới khoảng 3.000 người [5] . Ít nhất đã có 184 người chết, trong đó có 137 là người Hán và 46 là người Duy Ngô Nhĩ và 1 người Hồi. [1] Đây được coi là vụ bạo lực sắc tộc tồi tệ nhất Trung Quốc, diễn ra sau một năm khi xảy ra vụ bạo động Tây Tạng 2008. Bạo lực là một phần của cuộc xung đột sắc tộc đang diễn ra giữa người Hán và người Uyghur (phiên âm Hán: Duy Ngô Nhĩ) - một dân tộc gốc Turk chủ yếu theo đạo Hồi và là một trong những nhóm sắc tộc được công nhận chính thức tại Trung Quốc. Nhiều người cho rằng vụ bạo động bùng phát bởi sự bất mãn với cách giải quyết của chính quyền trung ương Trung Quốc về cái chết của hai công nhân người Uyghur tại tỉnh Quảng Đông [6] [7] . Tân Hoa xã n

Bài tấn – Wikipedia tiếng Việt

Tấn là cách chơi bài của Nga, du nhập vào Việt Nam, được chơi bởi 2-4 người. Đây là một trong những cách chơi thông dụng của bộ bài Tây. Trò này bắt nguồn từ nước Nga, với tên Durak (thằng ngốc - dùng để chỉ người còn bài cuối cùng). Các lá bài [ sửa | sửa mã nguồn ] 5 quân lớn trong bộ tú lơ khơ. Trò chơi sử dụng bộ bài tiêu chuẩn (gồm 52 lá bài). Xếp hạng "độ mạnh" của các quân bài theo thứ tự giảm dần như sau: A (đọc là át, ách hay xì)> K (đọc là ca hay già)> Q (đọc là quy hay đầm)> J (đọc là gi hay bồi)> 10> 9> 8> 7> 6> 5> 4> 3> 2. Lá bài A là lá mạnh nhất và lá 2 là lá bài yếu nhất. Chia bài, chọn nước bài chủ [ sửa | sửa mã nguồn ] Chơi từ 2-4 người. Người chơi quyết định ai là người chia. Mỗi người 8 quân bài, chọn chiều chia bài là chia ngược chiều (hoặc theo chiều) kim đồng hồ (chiều chia bài cũng là chiều đánh), sau khi chia xong bốc thêm một lá để quyết định chất chủ (hoặc chất trưởng). Lá bốc được mang chất nào (Cơ, Rô, C

Mitsubishi – Wikipedia tiếng Việt

Mitsubishi Group Ngành nghề Tập đoàn Thành lập 1870 Người sáng lập Iwasaki Yataro Trụ sở chính Tokyo, Nhật Bản Khu vực hoạt động Toàn cầu Nhân viên chủ chốt CEO, Ken Kobayashi Sản phẩm Khai khoáng, công nghiệp đóng tàu, viễn thông, tài chính, bảo hiểm, điện tử, ô tô, xây dựng, công nghiệp nặng, dầu khí, địa ốc, thực phẩm, hóa chất, luyện kim, hàng không... Doanh thu US$ 248.6 tỉ (2010) Lợi nhuận ròng US$ 7.2 tỉ (2010) Số nhân viên 350,000 (2010) Website Mitsubishi .com Logo của Mitsubishi là ba củ ấu chụm vào nhau Mitsubishi là một tập đoàn công nghiệp lớn của Nhật Bản. Công ty Mitsubishi đầu tiên là một công ty chuyển hàng thành lập bởi Yataro Iwasaki (1834–1885) năm 1870. Năm 1873, tên công ty được đổi thành Mitsubishi Shokai (三菱商会: Tam Lăng thương hội). Tên Mitsubishi (三菱) có hai phần: " mitsu " tức tam có nghĩa là " ba " và " hishi " tức lăng (âm " bishi " khi ở giữa chữ) có nghĩa là " củ ấu ", loại củ có hai đầu nhọn. Từ ngu