Skip to main content

Bad (album) – Wikipedia tiếng Việt

Bad là album phòng thu thứ bảy của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Michael Jackson, phát hành ngày 31 tháng 8 năm 1987[1] bởi Epic Records tại Hoa Kỳ và trên toàn cầu bởi CBS Records. Nó được phát hành sau gần 5 năm kể từ album phòng thu trước của Jackson, Thriller (1982). Bad được thu âm vào nửa đầu năm 1987, với nội dung lời bài hát liên quan đến những chủ đề như truyền thông một chiều, chứng hoang tưởng, phân biệt chủng tộc, lãng mạn, sự cầu tiến và hòa bình thế giới. Album đã giúp Jackson khẳng định tên tuổi như là một trong những nghệ sĩ thành công nhất thập niên 1980, cũng như đẩy mạnh sự nghiệp hát đơn của ông và là một trong những dự án âm nhạc xuất sắc nhất trong sự nghiệp của nam ca sĩ.

Trong Bad, Jackson thậm chí còn thể hiện sự tự do trong nghệ thuật hơn những album trước phát hành bởi Epic (Off the WallThriller). Ngoài ra, Jackson còn viết lời cho 9 trên tổng số 11 bài hát của album và tham gia đồng sản xuất, điều hành cho toàn bộ album. Album tiếp tục chuỗi thành công thương mại của Jackson trong cuối những năm 1980 và nhận được sáu đề cử giải Grammy, và chiến thắng hai giải. Bên cạnh những thành công thương mại, nó cũng nhận được nhiều lời khen ngợi từ các nhà phê bình đương đại. Bad đạt vị trí thứ 43 trong danh sách 100 album xuất sắc nhất mọi thời đại của thế hệ MTV vào năm 2009 bởi VH1. Tạp chí Rolling Stone cũng liệt kê album ở vị trí thứ 202 trong danh sách 500 album xuất sắc nhất mọi thời đại. Năm 2017, nó đã được Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Mỹ (RIAA) trao chứng nhận Kim cương, công nhận 10 triệu bản đã được tiêu thụ tại đây. Đây cũng là sản phẩm âm nhạc đánh dấu lần hợp tác cuối cùng giữa Jackson và nhà sản xuất Quincy Jones.

Bad đạt vị trí quán quân trên các bảng xếp hạng ở 13 quốc gia và lọt vào top 20 ở hầu hết những khu vực khác. Tính đến năm 2012, nó đã bán được từ 35 triệu bản trên toàn cầu, trở thành một trong những album bán chạy nhất mọi thời đại. Chín trong số 11 bài hát của Bad đã được phát hành làm đĩa đơn, bao gồm một đĩa đơn quảng bá và một đĩa đơn phát hành ngoài thị trường Bắc Mỹ. Đây là album đầu tiên trong lịch sử có 5 đĩa đơn đạt ngôi vị quán quân trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100, và cùng với Teenage Dream (2010) của Katy Perry trở thành hai album hiếm hoi làm được điều này. Ngoài ra, nó còn bao gồm thêm một đĩa đơn top 10 và một đĩa đơn top 20 trên Hot 100. Những bài hát không được phát hành làm đĩa đơn trong album là "Speed Demon" và "Just Good Friends". Tương tự như những nhạc phẩm trước đây của Jackson, âm nhạc của album chủ yếu mang những yếu tố của pop và rock.[3]





Quá trình sản xuất[sửa | sửa mã nguồn]



Những album phòng thu trước đây của Jackson, Off the WallThriller, đã gặt hái những thành công rực rỡ về mặt chuyên môn lẫn thương mại,[4][5] và lần lượt bán được hơn 20 triệu và 65 triệu bản trên toàn cầu.[6][7] Mục tiêu của Jackson cho Bad là nó sẽ bán được 100 triệu bản album.[8]

Đây là album phòng thu đầu tiên Jackson được phát hành sau khi ông tách hẳn khỏi ban nhạc gia đình The Jacksons, và là album phòng thu đầu tiên sau gần 5 năm kể từ Thriller. Bad cũng là album thứ ba, và là album cuối cùng đánh dấu sự hợp tác giữa Jackson và Quincy Jones. Album được sản xuất bởi Jones, với khâu đồng sản xuất được thực hiện bởi Jackson. Nam ca sĩ bắt đầu thu âm những bản thu nháp đầu tiên cho nó trong vài tháng sau chuyến lưu diễn năm 1984 Victory Tour với the Jacksons và xuyên suốt năm 1985 trong quá trình chuẩn bị cho bộ phim 4D của Disney là Captain EO, trong đó bao gồm bản mở rộng cho một bài hát sẽ xuất hiện trong album sau này "Another Part of Me." Quá trình phát triển dự án được bắt đầu vào tháng 11 năm 1986[9] và quá trình thu âm được diễn ra từ ngày 5 tháng 1 đến ngày 9 tháng 7 năm 1987 tại Westlake Audio,[10][11] nơi một sàn gỗ đặc biệt được xây dựng để Jackson có thể nhảy trong lúc đang thu âm.[12]

Jackson được cho là đã viết hơn 60 bài hát cho album mới và đã thu âm 30 bài, và ông muốn sử dụng tất cả chúng trong bộ ba đĩa[9]. Sau đó, Jones đã đề xuất ý tưởng cắt số lượng bài hát trong album thành 10 bài.[9] Khi album được phát hành trên CD, bài hát thứ 11, "Leave Me Alone" đã được thêm vào.[10] Những phiên bản LP tái phát hành sau của Bad cũng bao gồm bài hát này. Jackson đã viết lời cho 9 trên tổng số 11 bài hát trong album.[9] Những sáng tác khác bao gồm Terry Britten và Graham Lyle cho "Just Good Friend" và Siedah Garrett và Glen Ballard cho "Man In The Mirror".[10]


Âm nhạc[sửa | sửa mã nguồn]


"Bad" ban đầu được dự định sẽ là một bản song ca giữa Jackson và nhạc sĩ Prince.[9] Những nghệ sĩ khác được cho rằng sẽ góp phần vào album là Whitney Houston, Aretha Franklin và Barbra Streisand, nhưng những sự cộng tác này đã không xảy ra.[9] Lời nhạc của album nói về tình yêu và hoang tưởng. Sự hoang tưởng là chủ đề thường xuyên của Jackson, được sử dụng trong album trước đây của anh.[4] Allmusic nhận ra rằng Bad đưa Jackson đi sâu hơn đến dòng hard rock, dòng schmaltzy trưởng thành đương đại, đi sâu hơn đến hard dance — giữ vai trò rất quan trọng trong Thriller, khi tăng thương số immaculate studiocraft.[4]

"Dirty Diana" được xem xét bởi những nhà phê bình như một "sự ghét phụ nữ",[4] và lời nhạc của nó, đề cập đến dục vọng, không có mục đích đen tối của "Billie Jean", nhưng thay vì thế, âm điệu cuốn hút một cách tương tự bởi sự e ngại thử thách trong khi có cơ hội để từ chối nó.[4] "Leave Me Alone" được miêu tả như là một "hoang tưởng ca". Trong "Man in the Mirror", bài hát được miêu tả là Jackson đã tiến đến một bước xa hơn và đưa ra một triết lý thẳng thắn của lời thú nhận, điều được thấy trong lời nhạc: "Tôi bắt đầu với người đàn ông trong gương/ Tôi yêu cầu anh ta thay đổi cách của mình/Và không có thông điệp nào rõ ràng hơn thế/ Nếu bạn muốn biến thế giới thành một nơi tốt đẹp hơn/ Tự nhìn lại mình và tạo ra sự thay đổi" ("I'm starting with the man in the mirror/ I'm asking him to change his ways/And no message could have been clearer/ If you wanna make the world a better place/ Take a look at yourself and then make a change").[13] "Bad" được đánh giá là một sự tiến bộ với ca từ liên quan đến niềm kiêu hãnh. Nội dung của "Speed Demon" đề cập đến vấn đề lái quá nhau.[14]

Lời của "Liberian Girl" được nhận xét như là "tia sáng long lanh" với "lòng biết ơn" cho sự tồn tại của một người yêu quý.[13] Âm điệu của "Smooth Criminal" cho thấy điểm tương đồng với lối "nhai bắp rang rào rạo" của "Thriller".[13] Nó được nghĩ đến như là một ví dụ về "ngôn ngữ tự do của Jackson", điều làm người ta "nhận thức rằng họ đang ở trong khía cạnh của nhiều sự thật: bộ phim, giấc mơ mà ca khúc truyền đạt và thế giới mà nó soi sáng".[13] Âm điệu của "I Just Can’t Stop Loving You", một bản song ca với Siedah Garrett, chủ yếu gồm có tiếng bật ngón tay và timpani.[13] "Just Good Friends", bản song ca với Stevie Wonder, được đánh giá là hát tốt ở đầu bài hát và kết thúc với một niềm hân hoan vui sướng.[13] Nhạc của "The Way You Make Me Feel" bao gồm những bản hòa âm. Lời của "Another Part of Me" đề cập đến việc đoàn kết khi dùng từ "chúng ta".[13]


Quảng bá[sửa | sửa mã nguồn]


Jackson đang biểu diễn "The Way You Make Me Feel" trong Bad World Tour

Trước khi Bad được phát hành, Thriller đã bán được hàng triệu đĩa, đưa ra những sự kì vọng cho album mới. Một sự kỉ niệm đặc biệt trong cuộc đời của Jackson, The Magic Returns (Phép màu trở lại), đã được phát sóng trên CBS trong khoảng thời gian phát hành Bad.[1] Cuối bộ phim tài liệu, kênh CBS đã giới liệu lần đầu tiên video của ca khúc chủ đề trong album - "Bad".[1] Chiến lược quảng bá, điều khiển bởi Frank DiLeo cùng với những người khác, kể cả Michael Jackson, đã sản xuất một bộ phim ngắn trong thời gian biểu diễn Bad World Tour. Bộ phim Moonwalker, gồm màn trình diễn những ca khúc trong Bad, bao gồm "Speed Demon", "Leave Me Alone", "Man in the Mirror" và "Smooth Criminal", trong đó 2 bài hát sau được phát hành như một video đơn ở cuối bộ phim.[15][16] Tour diễn của Jackson để quảng bá cho Bad là một thành công to lớn về tài chính, kiếm được tổng cộng 125 triệu đô la.


Phát hành[sửa | sửa mã nguồn]


Album được phát hành vào ngày 31 tháng 8 năm 1987. Nó đã đạt quán quân trên bảng xếp hạng Billboard 200 vào ngày 26 tháng 9[20] và trụ lại tại vị trí đó trong 6 tuần tiếp theo.[21]Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ (RIAA) đã chứng nhận Bad 10 đĩa bạch kim cho việc bán được 10 triệu bản tại Hoa Kỳ nói riêng.[22] Mặc dù Jackson đã nâng cao được vị thế của anh trở thành một siêu sao nhạc pop toàn cầu, nhưng tại Mỹ, Bad đã thất bại trong việc ngang bằng với doanh số của Thriller, một số người trong giới truyền thông gán cho album là "sự thất vọng" khi được so sánh với Thriller.[9][23]

Trên toàn thế giới, Bad rất thành công về mặt thương mại. Tại Anh Quốc, album bán được 500 ngàn bản trong năm ngày đầu sau khi phát hành, và tính đến năm 2008 nó được chứng nhận đĩa bạch kim 13 lần cho doanh số 3,9 triệu bản, khiến nó trở thành album bán chạy thứ hai của Jackson tại Anh Quốc.[24]Bad đạt vị trí quán quân tại 25 quốc gia,[25] bao gồm nhiều thị trường lớn Áo, Canada, Hà Lan, Pháp, Đức, Ý, Nhật Bản, New Zealand, Na Uy, Thụy Điển và Thụy Sĩ. Bad nhận được rất nhiều chứng nhận khác nhau trên toàn thế giới. Nó nhận được chứng nhận 7 đĩa bạch kim bởi Hiệp hội Công nghiệp Thu âm Canada cho hơn 700,000 bản bán ra.[26] Tại châu Âu, bản tái phát hành năm 2001 của Bad được chứng nhận đĩa bạch kim bởi Liên minh công nghiệp quốc tế (IFPI) cho doanh số 1 triệu bản.[27] Album cũng được chứng nhận bạch kim bởi IFPI cho 20 ngàn bản tại Hồng Kông. Trên toàn cầu, album Bad của Jackson là album bán chạy thứ ba, sau ThrillerDangerous, với doanh số dao động từ 30 đến 45 triệu bản, theo nhiều nguồn khác nhau.[28][29][30][31][32][33]


Đĩa đơn[sửa | sửa mã nguồn]


Đĩa đơn đầu tiên "I Just Can’t Stop Loving You" trở thành bài hát khởi đầu trong số năm đĩa đơn của album đạt ngôi quán quân trên Billboard Hot 100. Bài hát đạt quán quân vào ngày 19 tháng 9 năm 1987, đồng thời đạt hạng nhất trên Billboard R&B/Hip Hop Songs và hạng hai trên Adult Contemporary.[34] Trên toàn thế giới, bài hát cũng đạt vị trí quán quân tại Anh Quốc (trong 2 tuần),[35], Hà Lan (7 tuần) và Na Uy (7 tuần)[36]. Đĩa đơn thứ hai của album, "Bad", đạt hạng nhất trên Billboard 100 vào ngày 16 tháng 10 năm 1987.[37] Bài hát dẫn đầu bảng xếp hạng ở Tây Ban Nha, cũng như lọt vào top 10 trên toàn thế giới.[38] "The Way You Make Me Feel" trở thành đĩa đơn thứ ba liên tục đạt quán quân trên Hot 100.[39] Bài hát nằm trong top 10 và 20 trên toàn cầu.[40] "Man In The Mirror" xếp hạng 1 trên Billboard Hot 100 vào tháng 3 năm 1988, và nằm ở vị trí thứ 4, 8 và 10 tại New Zealand, Úc và Áo.[41] Vào ngày 2 tháng 7 năm 1988, "Dirty Diana" đã trở thành đĩa đơn thứ năm và cuối cùng lên đỉnh quán quân trên Hot 100.[42] "Dirty Diana" cũng đạt thành công toàn cầu, khi nằm trong top 10 tại 8 quốc gia.[43]

"Another Part Of Me" đạt vị trí thứ 11 trên Billboard Hot 100, trong khi dẫn đầu Billboard R&B/Hip Hop Songs.[34][44] Trên toàn cầu, "Another Part Of Me" là một đĩa đơn đạt thành công tương đối khi được so sánh với những đĩa đơn trước, đạt hạng 5, 14 và 42 tại Thụy Sĩ, New Zealand và Pháp.[45] "Smooth Criminal" trở thành đĩa đơn top 10 thứ sáu của album trên Hot 100,[34] và thành công trên toàn cầu, lọt vào top 40 ở tất cả những quốc gia nó xuất hiện.[46] Được phát hành bên ngoài Hoa Kỳ và Canada, "Leave Me Alone" dẫn đầu bảng xếp hạng ở Ireland,[47] cũng như là đạt top 10 tại năm nước khác.[48] Đĩa đơn chính thức cuối cùng của album là "Liberian Girl", không lọt vào Billboard Hot 100, nhưng thành công trên toàn cầu và lọt vào top 20.[49]

Các đĩa đơn từ Bad cũng đạt được thành công rực rỡ ở Vương quốc Anh, nơi 7 đĩa đơn từ album đều lọt vào top 10 tại đây tính đến năm 2009 (ban đầu chỉ có 6, cho đến khi "Man in the Mirror" nhảy vọt từ vị trí 21-2 năm 2009), một thành tựu được lặp lại tương tự với album Dangerous (1991-1993). Kỷ lục này được tồn tại trong một thời gian dài trước khi Calvin Harris phá vỡ nó trong năm 2013.



Bad được đón nhận tốt mặc dù một số nhà phê bình chú ý rằng nó không thành công như mong đợi so với Thriller. Stepen Thomas Erlewine của Allmusic đánh giá rằng Jackson tiếp cận Bad như cách mà anh ấy tiếp nhận Thriller "lấy công thức cơ bản của album trước, mở rộng nó dần dần và đưa nó đi xa hơn".[50] Erlewine, người cho album 4 sao rưỡi trên năm sao, bình luận rằng những bài hát trong album có thể chấp nhận được nếu được truyền đạt với điệu bộ.[50] Davitt Sigerson của Rolling Stone đánh giá rằng dù không có một bản thu quan trọng như "Billie Jean", Bad vẫn được đánh giá là một bản thu tốt hơn Thriller."[13] Sigerson bình luận rằng những bài hát như "Speed Demon", "Dirty Diana" và "Liberian Girl" làm cho Bad trở nên phong phú hơn, gợi cảm hơn và đáng nhớ hơn so với Thriller.[13]

Nhà phê bình âm nhạc Robert Christgau cho Bad một điểm "B+", đánh giá rằng "thứ gần với thiên tài nhất" là ca khúc "Leave Me Alone," bản thu được hát và nhảy một cách hoàn hảo. Jennifer Clay của Yahoo Music chú ý rằng dù Bad rất tốt nhưng nó không đạt được "trình độ của Thriller."[51] Jon Pareles của The New York Times miêu tả Bad như một tia sáng, bản thu âm công nghệ cao chỉ là một chút khác biệt trong những khía cạnh của album. Parales cũng chú ý rằng Bad có một sự sắp xếp được tổng hợp, thứ rõ ràng và có thể kèm theo một "cú đá rắn chắc".[1] Richard Cromelin của The Los Angeles Times bình luận rằng bản thu âm "không tệ" và gợi lại về sức mạnh của Off the Wall hơn là Thriller.[54] Cromelin nhận thấy rằng thật đáng thất vọng nếu mức độ sáng tạo của album này là nơi mà Michael Jackson muốn dừng lại.[54]

Richard Harrington của The Washington Post bình luận sự kì vọng của Bad so với Thriller rằng "album hấp dẫn, mặc dù đoạn mở đầu của nó có lẽ làm những nhà phê bình chú ý bởi âm nhạc chứ không phải bởi doanh số".[55] Richard nhận thấy rằng trong khi album không thể sánh kịp với sự kì vọng của Thriller thì nó "khá hơn nhiều để so sánh" Bad với Off the Wall.[55] Ý kiến toàn diện của anh ấy về Bad rằng album là "một bản thu âm rất tốt", rằng nó được sản xuất không chê vào đâu được và những màn biểu diễn của Jackson rất sắc sảo.[55] Edna Gundersen của USA Today miêu tả Bad như là "nỗ lực tinh tế nhất của Jackson đến thời điểm hiện tại", rằng album rất khôn ngoan nhưng không khô cứng".[56] Thom Duffy của The Orlando Sentinel chú ý rằng một số chất liệu của album "lôi cuốn cả những thế hệ lớn hơn".[57]

Bad nhận được 6 đề cử giải Grammy, và thắng được 2 giải. Năm 1988, Bad được đề cử cho Album của năm, Trình diễn giọng Pop nam xuất sắc nhất, Trình diễn giọng R&B nam xuất sắc nhất[58] và Thu âm của năm cho "Man in the Mirror" vào năm sau. Bad là Album kĩ thuật không cổ điển xuất sắc nhất năm 1988, và Video nhạc hình thái ngắn xuất sắc nhất cho "Leave Me Alone" năm 1990.[59]



Jackson mặt một chiếc jacket kiểu quân đội được phủ vàng với một chiếc thắt lưng trong suốt kỉ nguyên Bad để tạo ra một cái nhìn cáu kỉnh hơn.[9]

Bad đã làm nên lịch sử khi là album đầu tiên có 5 đĩa đơn liên tiếp đạt ngôi quán quân trên Billboard Hot 100; "I Just Can't Stop Loving You", "Bad", "The Way You Make Me Feel", "Man in the Mirror" và "Dirty Diana", tất cả đã dẫn đầu trên bảng xếp hạng âm nhạc. Jayson Rodriguez của MTV, chú ý rằng việc theo sau cặp "thần công" Off the WallThriller là một nhiệm vụ không hề dễ dàng, nhưng album tiếp theo của Jackson, Bad năm 1987, rất dữ dội bất cứ hoàn cảnh nào.[23] Rodriguez bình luận rằng album bị "gạt bỏ một cách phi pháp" bởi những nhà phê bình chỉ vì doanh số của nó không "bom tấn" như Thriller và suốt gian đoạn Bad, giọng hát nất của Jackson và tiếng lắp bắp "shamone" đã trở thành những yếu tố chính trong âm nhạc của anh, tăng cường và làm nổi bật cảm xúc trong lời nhạc.[23] Rolling Stone bình luận rằng "cách tối ưu để xem xét" Bad không phải là "đoạn tiếp theo của Thriller".[13] Năm 2009, VH1 nói về album:
"Có thể hiểu được, sự kì vọng dành cho album cao đến mức lố bịch, và thậm chí còn cao hơn sau khi Jackson có kế hoạch song ca cùng Prince (trong ca khúc chủ đề) và cùng Whitney Houston (kể cả Aretha Franklin và Barbra Streisand). Không có sự hợp tác nào xảy ra, nhưng chúng chỉ làm tăng sức quảng bá cho album. Bad là một dự án cá nhân của Jackson—anh viết chín trong số 11 ca khúc, một điều cho thấy anh đã độc lập hơn và xuất hiện lần đầu trong một hình ảnh và âm thanh sắc sảo hơn".[9]

Jim Farber của The New York Daily News nhận thấy rằng Bad tổ chức tốt hơn phong cách của Jackson trong hai album trước để sáng tạo ra tác phẩm nhạc pop ngọt ngào nhất của anh đến thời điểm hiện tại.[60] Một nhà văn của The Daily Telegraph bình luận rằng trong khi Bad là một thành công thương mại toàn cầu, album chắc chắn thất bại để đạt được thành công của Thriller dù Jackson có tua diễn thế giới đồ sộ.[61] Năm 2009, một nhà báo của The Miami Herald nhận xét về Bad, miêu tả việc phát hành album như một "album được tiên đoán nóng bỏng nhất trong lịch sử".[62] Stephen M. Silverman, một nhà văn của People magazine, nhận xét về Bad rằng album cho thấy tính đại chúng của Jackson bắt đầu suy giảm.[63]

Vào tháng 11 – 2012, một thông báo bởi Official UK Charts Company, sau khi theo dõi doanh số của album trong sáu tháng, Bad là album bán chạy thứ chín trong lịch sử Anh Quốc với doanh số 3.96 triệu bản; đứng sau album Thriller của chính Michael.[64]Bad, cùng với những album phòng thu khác phát hành bởi Michael, nằm trong những album bán chạy nhất mọi thời đại.[65] Trong năm 2003, album đạt hạng 202 trên danh sách "500 Album vĩ đại nhất mọi thời đại" của tạp chí Rolling Stone.[66] Album nằm trong quyển sách mang tựa đề "1001 Album Bạn Phải Nghe Trước Lúc Chết".[67] Vào năm 2009, VH1 liệt album vào hạng thứ 43 trong danh sách "100 Album vĩ đại nhất của thế hệ MTV".[68] Năm 2012, tạp chí Slant liệt kê nó vào danh sách "Những Album xuất sắc nhất của thập niên 1980" ở hạng 48.[69]

Những bài hát của album được thu âm cover và nhại lại bởi một số lượng nghệ sĩ kể từ khi nó được phát hành vào cuối thập niên 1980. Đáng chú ý là phiên bản cover Smooth Criminal của Alien Ant Farm và The Way You Make Me Feel của Shakaya. Phiên bản nhái lại đáng chú ý là của "Weird Al" Yankovic, người trước đây cũng nhại lại ca khúc "Beat It" của Jackson.[70] Yankovic nhại lại "Bad", đặt tên lại là "Fat" trong năm 1988; bài hát giành một giải Grammy cùng năm cho "Video khái niệm xuất sắc nhất".[70]


Thành tựu[sửa | sửa mã nguồn]




























12. "Phỏng vấn Quincy Jones #1"    4:03
13. "Streetwalker" (chưa từng phát hành trước đó)Jackson 5:49
14. "Phỏng vấn Quincy Jones #2"    2:53
15. "Todo Mi Amor Eres Tu" (Phiên bản tiếng Tây Ban Nha của "I Just Can't Stop Loving You", chưa từng phát hành trước đó)Jackson, Rubén Blades 4:05
16. "Phỏng vấn Quincy Jones #3"    2:30
17. "Giọng nói giới thiệu cho Fly Away"    0:08
18. "Fly Away" (chưa từng phát hành trước đó)Jackson 3:26









  1. ^ a ă â b c Pareles, Jon (ngày 31 tháng 8 năm 1987). “Pop: Michael Jackson's 'Bad,' Follow-Up to a Blockbuster”. The New York Times. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2014. 


  2. ^ “Bad”. AllMusic. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2009. 

  3. ^ a ă â b c Erlewine, Stephen Thomas. “Michael Jackson – Bad”. Allmusic. Rovi Corporation. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2011. 

  4. ^ Holden, Stephen (ngày 1 tháng 11 năm 1979). “Off the Wall: Michael Jackson”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2008. 

  5. ^ Anderson, Kyle (ngày 20 tháng 7 năm 2009). “Michael Jackson's Thriller Set To Become Top-Selling Album Of All Time”. MTV. Viacom. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2010. 

  6. ^ Bill Wyman (ngày 4 tháng 1 năm 2013). “Did "Thriller" Really Sell a Hundred Million Copies?”. The New Yorker (Condé Nast). Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2013. 

  7. ^ Lisa D. Campbell (1993). Michael Jackson: the king of pop. Branden Books. tr. 147. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2011. 

  8. ^ a ă â b c d đ e ê Michael Jackson's Life & Legacy: The Eccentric King Of Pop (1986-1999) tại Wayback Machine (lưu trữ ngày 4 tháng 6 năm 2011). VH1. MTV Networks. ngày 7 tháng 6 năm 2009. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “otherinfo” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác

  9. ^ a ă â Bad: Special Edition (booklet). Epic Records. 2001. 

  10. ^ Sullivan, Randall (2012). Untouchable: The Strange Life and Tragic Death of Michael Jackson. Grove Press. tr. 589. ISBN 978-0-80211-962-9. 

  11. ^ Lisa D. Campbell (1993). Michael Jackson: the king of pop. Branden Books. tr. 151. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2011. 

  12. ^ a ă â b c d đ e ê g h Sigerson, Davitt (ngày 22 tháng 10 năm 1987). “Michael Jackson – Bad”. Rolling Stone. Wenner Media LLC. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2015. 

  13. ^ Pareles, Jon (ngày 3 tháng 9 năm 1987). “Critic's Notebook; How Good Is Jackson's 'Bad'?”. The New York Times. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2010. 

  14. ^ “Review: ‘Moonwalker’”. Variety. Ngày 31 tháng 12 năm 1987. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2010. 

  15. ^ Hunt, Dennis (ngày 10 tháng 1 năm 1989). “VIDEO REVIEW: 'Moonwalker': A Stroll Through a Super Ego”. Los Angeles Times. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2010. 




  16. ^ “Billboard 200 – Week of ngày 26 tháng 9 năm 1987”. Billboard. Ngày 26 tháng 9 năm 1987. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2015. 

  17. ^ Caulfield, Keith (ngày 6 tháng 1 năm 2010). “Taylor Swift Edges Susan Boyle For 2009's Top-Selling Album”. Billboard. Nielsen Business Media. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2015. 

  18. ^ “Michael Jackson's "Thriller" Certified 33x Platinum; "Bad" Now Diamond”. Headline Planet (bằng tiếng en-US). Ngày 16 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2017. 

  19. ^ a ă â Rodriguez, Jayson (ngày 25 tháng 6 năm 2009). “Michael Jackson’s Musical Legacy, From The Jackson 5 To Invincible”. MTV. Viacom. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2010. 

  20. ^ “Certified Awards”. British Phonographic Industry. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2010. 

  21. ^ “Michael Jackson Feted As Top Artist Of Decade After Selling 110 Million Discs” 77 (22). Ngày 12 tháng 3 năm 1990. tr. 60. ISSN 0021-5996. 

  22. ^ “Gold/Platinum”. Music Canada. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2014. 

  23. ^ “Michael Jackson: Albumi”. International Federation of the Phonographic Industry. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2010. 

  24. ^ “Michael Jackson Bad album set for re-release”. The Daily Telegraph. Ngày 9 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2012. 

  25. ^ “50 fastest selling albums ever”. NME. Ngày 27 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2012. 

  26. ^ Kaufman, Gil (ngày 5 tháng 11 năm 2010). “Michael Jackson’s New Album Cover Decoded”. MTV. Viacom. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2015. 

  27. ^ Sinha-Roy, Piya (ngày 21 tháng 5 năm 2012). “Michael Jackson is still "Bad," 25 years after album”. Reuters. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2012. 

  28. ^ 25th Anniversary Of Michael Jackson’s Landmark Album Bad Celebrated With September 18 Release Of New Bad 25 Packages tại Wayback Machine (lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2013). Yahoo!. ngày 21 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2012.

  29. ^ “Michael Jackson's groundbreaking 'Bad' album will be re-released to celebrate its 25th anniversary”. Contactmusic.com. Ngày 21 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2012. 

  30. ^ a ă â “Bad – Awrds”. AllMusic. All Media Network. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2015. 

  31. ^ “Michael Jackson”. Official Charts Company. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2015. 

  32. ^ “Michael Jackson – I Just Can't Stop Loving You” (bằng tiếng Hà Lan). Single Top 100. Hung Medien. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2015. 

  33. ^ “The Hot 100 – Week of ngày 24 tháng 10 năm 1987”. Billboard. Ngày 24 tháng 10 năm 1987. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2015. 

  34. ^ “Michael Jackson – Bad” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Hung Medien. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2015. 

  35. ^ “The Hot 100 – Week of ngày 23 tháng 1 năm 1988”. Billboard. Ngày 23 tháng 1 năm 1988. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2015. 

  36. ^ “Michael Jackson – The Way You Make Me Feel” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Hung Medien. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2015. 

  37. ^ “The Hot 100 – Week of ngày 26 tháng 3 năm 1988”. Billboard. Ngày 26 tháng 3 năm 1988. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2015. 

  38. ^ “The Hot 100 – Week of ngày 2 tháng 7 năm 1988”. Billboard. Ngày 2 tháng 7 năm 1988. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2015. 

  39. ^ “Michael Jackson – Dirty Diana” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Hung Medien. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2015. 

  40. ^ “The Hot 100 – ngày 10 tháng 9 năm 1988”. Billboard. Ngày 2 tháng 7 năm 1988. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2015. 

  41. ^ “Michael Jackson – Another Part Of Me”. Ultratop. Hung Medien. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2015. 

  42. ^ “Michael Jackson – Smooth Criminal” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Hung Medien. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2015. 

  43. ^ “The Irish Charts – All there is to know”. Irishcharts.ie. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2014. 

  44. ^ “Michael Jackson – Leave Me Alone” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Hung Medien. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2015. 

  45. ^ “Michael Jackson – Liberian Girl” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Hung Medien. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2015. 

  46. ^ a ă â Erlewine, Stephen Thomas. “Michael Jackson – Bad”. AllMusic. All Media Network. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2011. 

  47. ^ a ă Christgau, Robert. “Michael Jackson: Consumer Guild Reviews”. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2010. 

  48. ^ Michael Jackson tại Wayback Machine (lưu trữ ngày 15 tháng 11 năm 2013). Rolling Stone. Wenner Media LLC. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2014.

  49. ^ Clay, Jennifer (ngày 1 tháng 1 năm 1987). Michael Jackson: Reviews tại Wayback Machine (lưu trữ ngày 6 tháng 8 năm 2009). Yahoo! Music. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2015.

  50. ^ a ă Cromelin, Richard (ngày 31 tháng 8 năm 1987). “Michael Jackson has a good thing in 'Bad'”. Los Angeles Times. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2014. 

  51. ^ a ă â Harrington, Richard (ngày 31 tháng 8 năm 1987). “Article: Jackson's `Bad': Looking Good; Not a `Thriller' but It's Full of Flash”. The Washington Post (HighBeam Research). Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2010. 

  52. ^ Gundersen, Edna (ngày 31 tháng 8 năm 1987). “The ever-changing Jackson, Michael jumps back and he's super `Bad'”. USA Today. 

  53. ^ Duffy, Thom (ngày 1 tháng 9 năm 1987). “Jackson Re-emerges, Still Thrills With 'Bad'”. Orlando Sentinel. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2013. 

  54. ^ a ă “30th Grammy Awards – 1988”. Rock On The Net. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2010. 

  55. ^ a ă “32nd Grammy Awards – 1990”. Rock On The Net. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2010. 

  56. ^ Farber, Jim (ngày 26 tháng 6 năm 2009). “For Michael Jackson, the beat went on: after 'Thriller,' hits kept coming”. Daily News. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2015. 

  57. ^ “Video: Michael Jackson's weird and wonderful life”. The Daily Telegraph. Ngày 26 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2010. 

  58. ^ “A Look Back”. Miami Herald. Ngày 26 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2010. 

  59. ^ Silverman, Stephen M. (ngày 25 tháng 6 năm 2009). “Superstar: The Incredible Life of Michael Jackson 1958-2009”. People. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2010. 

  60. ^ Lane, Dan (ngày 28 tháng 2 năm 2012). “Adele overtakes Michael Jackson in all-time biggest selling albums chart”. Official Charts Company. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2014. 

  61. ^ Mackay, Mairi (ngày 26 tháng 6 năm 2009). “Michael Jackson album sales soar”. CNN. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2010. 

  62. ^ a ă The RS 500 Greatest Albums of All Time (1-500) tại Wayback Machine (lưu trữ ngày 15 tháng 1 năm 2007). Rolling Stone. Wenner Media LLC. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2010.

  63. ^ a ă “1001 Albums You Must Hear Before You Die”. Quintessence Editions Ltd. 2003. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2010. 

  64. ^ a ă VH1 – Greatest Albums Ever tại Wayback Machine (lưu trữ ngày 10 tháng 3 năm 2009). MTV. Viacom. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2010.

  65. ^ “The 100 Best Albums of the 1980s”. Slant Magazine. Ngày 5 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2012. 

  66. ^ a ă “Michael Jackson Remembered: "Weird Al" Yankovic on Imitation as Flattery”. Rolling Stone. Ngày 9 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2010. 

  67. ^ “Bad/Dangerous”. www.amazon.co.uk. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2008. 

  68. ^ “Hits of the World” (PDF). Billboard. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017. 

  69. ^ "Michael Jackson - Bad" (bằng tiếng Đức). Austriancharts.at. Hung Medien. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2015.

  70. ^ “RPM 100 Albums”. RPM. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017. 

  71. ^ “Hits of the World” (PDF). Billboard. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017. 

  72. ^ "Michael Jackson – Bad". Dutchcharts.nl. Hung Medien. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2015.

  73. ^ “Hits of the World” (PDF). Billboard. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017. 

  74. ^ a ă (tiếng Pháp) Les Albums (CD) de 1987 par InfoDisc tại Wayback Machine (lưu trữ ngày 1 tháng 2 năm 2016)

  75. ^ “Michael Jackson - Offizielle Deutsche Charts” (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017. 

  76. ^ “Hits of the World” (PDF). Billboard. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017. 

  77. ^ “Hits of the World” (PDF). Billboard. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017. 

  78. ^ "Michael Jackson – Bad". Charts.org.nz. Hung Medien. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2015.

  79. ^ "Michael Jackson – Bad". Norwegiancharts.com. Hung Medien. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2015.

  80. ^ "Michael Jackson – Bad". Swedishcharts.com. Hung Medien. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2015.

  81. ^ "Michael Jackson – Bad". Swisscharts.com. Hung Medien. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2015.

  82. ^ "Michael Jackson | Artist | Official Charts". UK Albums Chart. The Official Charts Company. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2015.

  83. ^ "Michael Jackson Album & Song Chart History" Billboard 200 cho Michael Jackson. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2015.

  84. ^ "Michael Jackson Album & Song Chart History" Billboard Top R&B/Hip Hop Albums cho Michael Jackson. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2015.

  85. ^ (tiếng Bồ Đào Nha) ABPD CD – TOP 10 Semanal tại Wayback Machine (lưu trữ ngày 12 tháng 11 năm 2014). Associação Brasileira dos Produtores de Discos.

  86. ^ "Top 50 Prodejní". Czech Albums. ČNS IFPI. Note: On the chart page, select 200929 on the field besides the word "Zobrazit", and then click over the word to retrieve the correct chart data. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2015.

  87. ^ "Michael Jackson – Bad". Mexicancharts.com. Hung Medien. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2015.

  88. ^ "Oficjalna lista sprzedaży :: OLIS - Official Retail Sales Chart" (bằng tiếng Ba Lan). OLiS. Związek Producentów Audio Video. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2015.

  89. ^ "Michael Jackson – Bad". Portuguesecharts.com. Hung Medien. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2015.

  90. ^ "Michael Jackson – Bad". Danishcharts.com. Hung Medien. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2015.

  91. ^ "Michael Jackson – Bad". Spanishcharts.com. Hung Medien. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2015.

  92. ^ Kent, David (1993). Australian Chart Book 1970–1992. St Ives, NSW: Australian Chart Book. ISBN 0-646-11917-6. 

  93. ^ “Jahreshitparade 1987” (bằng tiếng Đức). Austriancharts.at. Hung Medien. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2015. 

  94. ^ “Top 100 Albums of 1987”. RPM. Library and Archives Canada. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2015. 

  95. ^ “Dutch charts jaaroverzichten 1987”. Dutchcharts.nl. Ngày 28 tháng 12 năm 1987. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017. 

  96. ^ “Top 100 Album-Jahrescharts 1987” (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017. 

  97. ^ “Gli album più venduti del 1987”. Hit Parade Italia. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017. 

  98. ^ “1987年間アルバムヒットチャート” [Japanese Year-End Albums Chart 1987] (bằng tiếng Nhật). Oricon. Entamedata.web.fc2.com. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2015. 

  99. ^ “Top Selling Albums of 1987”. RIANZ. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017. 

  100. ^ “Swiss Year-end Charts 1987”. Hung Medien. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017. 

  101. ^ a ă “Chart Archive – 1980s Albums”. Everyhit.com. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2015. 

  102. ^ “Jahreshitparade 1988” (bằng tiếng Đức). Austriancharts.at. Hung Medien. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2015. 

  103. ^ “Dutch charts jaaroverzichten 1987”. Dutchcharts.nl. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017. 

  104. ^ “Top 100 Album-Jahrescharts 1987” (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017. 

  105. ^ “Top Selling Albums of 1988”. Nztop40.co.nz. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017. 

  106. ^ “Swiss Year-end Charts 1988”. Hung Medien. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017. 

  107. ^ a ă “1988 Year-end Charts” (PDF). Billboard. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017. 

  108. ^ “Dutch charts jaaroverzichten 1989”. Dutchcharts.nl. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017. 

  109. ^ “Top 100 Album-Jahrescharts 1989” (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017. 

  110. ^ “Najlepiej sprzedające się albumy w W.Brytanii w 1989r” (bằng tiếng Polish). Z archiwum...rocka. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2014. 

  111. ^ “Austriancharts.at – Bestenlisten – 80-er album” (bằng tiếng Đức). Hung Medien. 

  112. ^ “UK decade 80s”. everyhit.com. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2012. 

  113. ^ Kreisler, Lauren (ngày 10 tháng 2 năm 2014). “Queen's Greatest Hits becomes first album to sell 6 million copies in the UK”. Official Charts Company. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2014. 

  114. ^ “Greatest of All Time Billboard 200 Albums”. Billboard. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2015. 

  115. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2009 Albums”. Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2014. 

  116. ^ “Austrian album certifications – Michael Jackson – Bad” (bằng tiếng Đức). IFPI Áo. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2014.  Nhập Michael Jackson vào ô Interpret (Tìm kiếm). Nhập Bad vào ô Titel (Tựa đề). Chọn album trong khung Format (Định dạng). Nhấn Suchen (Tìm)

  117. ^ “Canada album certifications – Michael Jackson – Bad”. Music Canada. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2014. 

  118. ^ "Bad" Danish record award for the sale of 100,000 copies in Denmark”. MJ Collectors. Tháng 6 năm 1988. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2014. 

  119. ^ a ă “Finland album certifications – Michael Jackson – Bad” (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2014. 

  120. ^ “French sales certification”. Syndicat National de l'Édition Phonographique (bằng tiếng Pháp). InfoDisc. 1987. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2014. 

  121. ^ “Gold-/Platin-Datenbank (Michael Jackson; 'Bad')” (bằng tiếng Đức). Bundesverband Musikindustrie. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2014. 

  122. ^ “Hong Kong sales certification”. IFPI Hong Kong. 1988. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2014. 

  123. ^ Cobo, Leila (ngày 2 tháng 7 năm 2009). “Michael Jackson Remains a Global Phenomenon”. Billboard. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2014. 

  124. ^ “E' Claudio Baglioni il Jackson italiano”. La Stampa (bằng tiếng Ý). Ngày 12 tháng 5 năm 1995. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2014. 

  125. ^ “By director Spike Lee, a new documentary film is nearing completion”. Sony Music Japan (bằng tiếng Nhật). Ngày 11 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2014. 

  126. ^ “Mexican sales certification” (bằng tiếng Tây Ban Nha). AMPROFON. 2009. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2014. 

  127. ^ “Een ster in het land van lilliputters”. Trouw (bằng tiếng Hà Lan). Ngày 29 tháng 10 năm 2001. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2014. 

  128. ^ “New Zealand album certifications – Michael Jackson – Bad”. Recorded Music NZ. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2014. 

  129. ^ Salaverri, Fernando (tháng 9 năm 2005). Sólo éxitos: año a año, 1959–2002 (ấn bản 1). Spain: Fundación Autor-SGAE. ISBN 84-8048-639-2. 

  130. ^ “Gold and Platinum Awards” (PDF). Swedish Recording Industry Association. 1987–1998. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2014. 

  131. ^ “Britain album certifications – Michael Jackson – Bad” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2014.  Nhập Bad vào ô Keywords. Chọn Title trong khung Search by. Chọn Album trong khung By Format. Nhấn Search

  132. ^ Lane, Dan (ngày 28 tháng 2 năm 2012). “Adele overtakes Michael Jackson in all-time biggest selling albums chart”. Official Charts Company. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2014. 

  133. ^ “American album certifications – Michael Jackson – Bad” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ.  Nếu cần, nhấn Advanced Search, dưới mục Format chọn Album rồi nhấn Search



Comments

Popular posts from this blog

Bạo động tại Ürümqi, tháng 7 năm 2009 – Wikipedia tiếng Việt

Bạo loạn Tân Cương (tiếng Anh: Xinjiang riots ), hay Vụ bạo động tại Ürümqi (tiếng Anh: July 2009 Ürümqi riots ), thủ phủ của khu tự trị dân tộc Duy Ngô Nhĩ Tân Cương ở miền Tây Trung Quốc xảy ra vào đêm ngày 5 tháng 7 năm 2009. Vụ bạo động bao gồm 1.000 người [2] [3] [4] tham gia và sau đó đã tăng lên tới khoảng 3.000 người [5] . Ít nhất đã có 184 người chết, trong đó có 137 là người Hán và 46 là người Duy Ngô Nhĩ và 1 người Hồi. [1] Đây được coi là vụ bạo lực sắc tộc tồi tệ nhất Trung Quốc, diễn ra sau một năm khi xảy ra vụ bạo động Tây Tạng 2008. Bạo lực là một phần của cuộc xung đột sắc tộc đang diễn ra giữa người Hán và người Uyghur (phiên âm Hán: Duy Ngô Nhĩ) - một dân tộc gốc Turk chủ yếu theo đạo Hồi và là một trong những nhóm sắc tộc được công nhận chính thức tại Trung Quốc. Nhiều người cho rằng vụ bạo động bùng phát bởi sự bất mãn với cách giải quyết của chính quyền trung ương Trung Quốc về cái chết của hai công nhân người Uyghur tại tỉnh Quảng Đông [6] [7] . Tân Hoa xã n

Bài tấn – Wikipedia tiếng Việt

Tấn là cách chơi bài của Nga, du nhập vào Việt Nam, được chơi bởi 2-4 người. Đây là một trong những cách chơi thông dụng của bộ bài Tây. Trò này bắt nguồn từ nước Nga, với tên Durak (thằng ngốc - dùng để chỉ người còn bài cuối cùng). Các lá bài [ sửa | sửa mã nguồn ] 5 quân lớn trong bộ tú lơ khơ. Trò chơi sử dụng bộ bài tiêu chuẩn (gồm 52 lá bài). Xếp hạng "độ mạnh" của các quân bài theo thứ tự giảm dần như sau: A (đọc là át, ách hay xì)> K (đọc là ca hay già)> Q (đọc là quy hay đầm)> J (đọc là gi hay bồi)> 10> 9> 8> 7> 6> 5> 4> 3> 2. Lá bài A là lá mạnh nhất và lá 2 là lá bài yếu nhất. Chia bài, chọn nước bài chủ [ sửa | sửa mã nguồn ] Chơi từ 2-4 người. Người chơi quyết định ai là người chia. Mỗi người 8 quân bài, chọn chiều chia bài là chia ngược chiều (hoặc theo chiều) kim đồng hồ (chiều chia bài cũng là chiều đánh), sau khi chia xong bốc thêm một lá để quyết định chất chủ (hoặc chất trưởng). Lá bốc được mang chất nào (Cơ, Rô, C

Mitsubishi – Wikipedia tiếng Việt

Mitsubishi Group Ngành nghề Tập đoàn Thành lập 1870 Người sáng lập Iwasaki Yataro Trụ sở chính Tokyo, Nhật Bản Khu vực hoạt động Toàn cầu Nhân viên chủ chốt CEO, Ken Kobayashi Sản phẩm Khai khoáng, công nghiệp đóng tàu, viễn thông, tài chính, bảo hiểm, điện tử, ô tô, xây dựng, công nghiệp nặng, dầu khí, địa ốc, thực phẩm, hóa chất, luyện kim, hàng không... Doanh thu US$ 248.6 tỉ (2010) Lợi nhuận ròng US$ 7.2 tỉ (2010) Số nhân viên 350,000 (2010) Website Mitsubishi .com Logo của Mitsubishi là ba củ ấu chụm vào nhau Mitsubishi là một tập đoàn công nghiệp lớn của Nhật Bản. Công ty Mitsubishi đầu tiên là một công ty chuyển hàng thành lập bởi Yataro Iwasaki (1834–1885) năm 1870. Năm 1873, tên công ty được đổi thành Mitsubishi Shokai (三菱商会: Tam Lăng thương hội). Tên Mitsubishi (三菱) có hai phần: " mitsu " tức tam có nghĩa là " ba " và " hishi " tức lăng (âm " bishi " khi ở giữa chữ) có nghĩa là " củ ấu ", loại củ có hai đầu nhọn. Từ ngu