Skip to main content

Beautiful Stranger – Wikipedia tiếng Việt

"Beautiful Stranger" (tạm dịch: Kẻ lạ mặt xinh đẹp) là một bài hát của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Madonna nằm trong album nhạc phim của bộ phim năm 1999 Austin Powers: The Spy Who Shagged Me. Nó được phát hành làm đĩa đơn vào ngày 19 tháng 5 năm 1999 bởi Maverick Records. Bài hát được viết lời và sản xuất bởi Madonna và William Orbit, được lấy cảm hứng từ mối quan hệ tình cảm lúc bấy giờ giữa Madonna và nhà văn người Anh quốc Andy Bird. "Beautiful Stranger" còn xuất hiện trong hai album tuyệt phẩm của cô là GHV2 (2001) và Celebration (2009). Đây là một bản psychedelic pop với những âm thanh guitar vang dội và trống nổi bật, mang nội dung về sự mê hoặc của tình yêu.

Sau khi phát hành, "Beautiful Stranger" nhận được những phản ứng tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao quá trình sản xuất của nó và sự phát triển trong âm nhạc của Madonna, sau thành công về mặt chuyên môn của album Ray of Light (1998). Nó cũng gặt hái những thành công vượt trội về mặt thương mại, đứng đầu các bảng xếp hạng ở Canada, Phần Lan và Ý, và lọt vào top 5 ở nhiều thị trường lớn như Úc, Đan Mạch, Ireland, New Zealand, Tây Ban Nha và Vương quốc Anh. Mặc dù không được phát hành thương mại tại Hoa Kỳ, bài hát đạt vị trí thứ 19 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 nhờ vào lượng yêu cầu mạnh mẽ trên sóng phát thanh. Năm 2000, "Beautiful Stranger" nhận được hai đề cử giải Grammy cho Trình diễn giọng pop nữ xuất sắc nhất và Bài hát xuất sắc nhất thuộc thể loại phim điện ảnh, truyền hình hoặc phương tiện truyền thông khác, và chiến thắng giải sau. Tính đến nay, nó đã bán được hơn 2.5 triệu bản trên toàn thế giới.

Video ca nhạc cho "Beautiful Stranger" được đạo diễn bởi Brett Ratner, với sự tham gia diễn xuất của Mike Myers dưới hình tượng nhân vật Austin Powers. Ở cuối video, Madonna tán tỉnh Myers và rời đi trên chiếc xe của anh. Nó đã chiến thắng một giải Video âm nhạc của MTV cho Video xuất sắc nhất từ một bộ phim vào năm 1999. Madonna đã trình diễn bài hát trong chuyến lưu diễn Drowned World Tour (2001), và nó đã được hát lại bởi một số nghệ sĩ, bao gồm phiên bản được giới chuyên môn đánh giá cao của ban nhạc rock nước Úc DMA's.








Danh sách những phiên bản chính thức[sửa | sửa mã nguồn]


  • Phiên bản nhạc phim - 4:51

  • Lite Radio Mix - 5:00

  • Nhạc đệm - 4:21

  • Acapella - 3:41

  • Phiên bản video - 4:32

  • Nhạc đệm video - 4:32

  • William Orbit Radio chỉnh sửa - 3:59

  • William Orbit Radio chỉnh sửa Không lời - 3:40

  • Chỉnh sửa (William Orbit CD quảng cáo) - 3:50

  • Victor Calderone Club Mix - 10:13

  • Victor Calderone Dub Mix - 6:20

  • Victor Calderone Radio chỉnh sửa - 4:03

  • Victor Calderone New Club chỉnh sửa - 5:11






Comments

Popular posts from this blog

Dorres – Wikipedia tiếng Việt

Tọa độ: 42°29′08″B 1°56′23″Đ  /  42,4855555556°B 1,93972222222°Đ  / 42.4855555556; 1.93972222222 Dorres Dorres Hành chính Quốc gia Pháp Vùng Occitanie Tỉnh Pyrénées-Orientales Quận Prades Tổng Saillagouse Xã (thị) trưởng Victor Marty (2001-2008) Thống kê Độ cao 1.332–2.827 m (4.370–9.275 ft) (bình quân 1.450 m/4.760 ft) Diện tích đất 1 24,77 km 2 (9,56 sq mi) INSEE/Mã bưu chính 66062/ 66760 Dorres là một xã thuộc tỉnh Pyrénées-Orientales trong vùng Occitanie phía nam Pháp. Xã này nằm ở khu vực có độ cao trung bình 1450 mét trên mực nước biển. INSEE x t s Các xã của tỉnh Pyrénées-Orientales L'Albère  · Alénya  · Amélie-les-Bains-Palalda  · Les Angles  · Angoustrine-Villeneuve-des-Escaldes  · Ansignan  · Arboussols  · Argelès-sur-Mer  · Arles-sur-Tech  · Ayguatébia-Talau  · Bages  · Baho  · Baillestavy  · Baixas  · Banyuls-dels-Aspres  · Banyuls-sur-Mer  · Le Barcarès  · La Bastide  · Bélesta  · Bolquère  · Bompas  · Boule-d'Amont 

Nhà thờ chính tòa Bùi Chu – Wikipedia tiếng Việt

Nhà thờ Bùi Chu là một nhà thờ Công giáo Rôma, tọa lạc ở xã Xuân Ngọc, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Bùi Chu là nhà thờ chính tòa của giáo phận Bùi Chu. Đây còn là nơi an nghỉ của 5 giám mục đã từng cai quản giáo phận. Nhà thờ Bùi Chu được xây dựng dưới thời Pháp thuộc bởi giám mục Wenceslao Onate Thuận (1884) với chiều dài 78m, rộng 22m, cao 15m [1] . Trải qua hơn 100 năm, ngôi nhà thờ này vẫn đứng vững với những cột gỗ lim và những đường nét hoa văn mang dấu ấn kiến trúc phương Tây. Hàng năm vào ngày 8 tháng 8, ngày lễ quan thầy của giáo phận, có nhiều giáo dân tập trung về dâng lễ.

Bạo động tại Ürümqi, tháng 7 năm 2009 – Wikipedia tiếng Việt

Bạo loạn Tân Cương (tiếng Anh: Xinjiang riots ), hay Vụ bạo động tại Ürümqi (tiếng Anh: July 2009 Ürümqi riots ), thủ phủ của khu tự trị dân tộc Duy Ngô Nhĩ Tân Cương ở miền Tây Trung Quốc xảy ra vào đêm ngày 5 tháng 7 năm 2009. Vụ bạo động bao gồm 1.000 người [2] [3] [4] tham gia và sau đó đã tăng lên tới khoảng 3.000 người [5] . Ít nhất đã có 184 người chết, trong đó có 137 là người Hán và 46 là người Duy Ngô Nhĩ và 1 người Hồi. [1] Đây được coi là vụ bạo lực sắc tộc tồi tệ nhất Trung Quốc, diễn ra sau một năm khi xảy ra vụ bạo động Tây Tạng 2008. Bạo lực là một phần của cuộc xung đột sắc tộc đang diễn ra giữa người Hán và người Uyghur (phiên âm Hán: Duy Ngô Nhĩ) - một dân tộc gốc Turk chủ yếu theo đạo Hồi và là một trong những nhóm sắc tộc được công nhận chính thức tại Trung Quốc. Nhiều người cho rằng vụ bạo động bùng phát bởi sự bất mãn với cách giải quyết của chính quyền trung ương Trung Quốc về cái chết của hai công nhân người Uyghur tại tỉnh Quảng Đông [6] [7] . Tân Hoa xã n